Năng lượng: Mối lo của tương lai
Giới chuyên gia có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau về trữ lượng của dầu mỏ. Nhà địa vật lý Kenneth Deffeyes (Đại học Princenton) cho rằng, thiếu hụt dầu mỏ bắt đầu từ cuối năm 2006. Một số nhà địa chất Thụy Điển cho rằng, giá dầu mỏ tăng vọt ngay từ năm 2005 là dấu hiệu mở đầu cho cuộc khủng hoảng năng lượng mang tính toàn cầu. Nhưng nhà kinh tế Morris Adelman (Viện Công nghệ Massachusett, Mỹ) lại cho rằng: trong vòng 25-30 nữa, dầu mỏ vẫn còn đủ dùng thừa thãi. Thậm chí một số nhà địa chất lạc quan của Mỹ còn cho rằng, tổng dự trữ dầu mỏ toàn cầu ước chừng còn 3,3 ngàn tỷ thùng và mới có khoảng 700 ngàn triệu thùng được khai thác (tính từ thế kỷ XIX đến nay).
Tuy nhiên, sự quá lạc quan về nguồn dầu mỏ trong lòng trái đất đều khiến hầu hết mọi người hoài nghi. Thứ nhất, nhiều nhà khoa học cho rằng, con số dự đoán trên là quá lớn. Các số liệu khảo sát địa chất gần đây nhất cho thấy, khó có khả năng tìm ra những mỏ dầu lớn. Thứ hai, dù có công nghệ hiện đại thì việc khai thác những mỏ dầu ở quá sâu trong lòng đất hay đại dương đều rất tốn kém, khiến giá thành đội lên cao mà không một ngành kinh tế nào chịu đựng được.
Những nền kinh tế đang phát triển mạnh như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ đang “đói” dầu mỏ một cách gay gắt. Nhật đang để mắt tới các mỏ dầu ở Seberia (Nga); còn Nga, Mỹ, Trung Quốc đang tìm cách làm chủ các mỏ dầu ở Kazakhstan và Azerbaijan ...
Dù sao, đó chỉ là những toan tính trước mắt. Còn thực chất của vấn đề năng lượng trên toàn cầu chính là ở chỗ quốc gia nào sẽ đi nhanh hơn trong việc tạo ra các công nghệ mới để sử dụng các nguồn năng lượng mới vừa không gây ô nhiễm, vừa không phụ thuộc hoặc chí ít cũng rất ít phụ thuộc vào các tài nguyên “trời cho”. Quốc gia nào nắm được công nghệ này sớm nhất sẽ làm chủ thế giới. Mỹ có lẽ là nước đang đi đầu trong công việc này. Hàng năm, Chính phủ Mỹ chi hàng trăm tỷ USD cho các mục tiêu nghiên cứu về năng lượng. Nhật cũng không kém. Những chi tiêu này không ồn ào, không được tuyên truyền nhưng mục tiêu thì rất rõ ràng: phải có các công nghệ mới về năng lượng thay thế dầu mỏ vì thiếu năng lượng thì các công nghệ khác như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano… cũng trở nên vô nghĩa.
Riêng tại nước ta, Hà Nội trong mùa khô 2004 đã “rung chuyển” chỉ vì thiếu điện trong vài ngày. Trong tương lai, thời tiết thất thường như năm 2004 sẽ là chuyện không tránh khỏi. Việc quá phụ thuộc vào thủy điện sẽ đem lại nhiều hậu quả khó lường cho nền kinh tế. Những đầu tư cho việc sử dụng năng lượng gió, địa nhiệt, năng lượng mặt trời… tuy cần thiết nhưng không thể thỏa mãn các nhu cầu mang tầm quốc gia, ít nhất là trong vài chục năm trước mắt. Bởi công suất của các nguồn phát này thường nhỏ và phụ thuộc vào thời tiết.
Trước mắt, có lẽ chúng ta nên chú ý vào một số lĩnh vực sau:
- Nghiên cứu sử dụng than đá, than bùn trong phát điện. Đây là những nhiên liệu có nhiều ở Việt Nam . Sử dụng chúng trong phát điện phải là một ưu tiên trong cơ cấu nguồn phát. Tuy nhiên, chúng ta cần phải tập trung cho nghiên cứu, vì đến nay những công nghệ sử dụng và khai thác nguồn nhiên liện này ở nước ta vẫn lạc hậu, kém hiệu quả và gây ô nhiễm môi trường, trong khi nhiều nước trên thế giới đã có các công nghệ tốt hơn nhiều.
- Sử dụng năng lượng hạt nhân trong phát điện. Đây là xu hướng tất yếu của cả thế giới. Tuy rằng sau sự cố Chécnôbưn, việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân có chững lại do phản ứng của giới bảo vệ môi trường. Sự phản đối này là hoàn toàn chính đáng bởi chỉ một lần sự cố như Chécnôbưn mà đã gây ra biết bao phiền hà và tốn kém mà đến tận ngày nay chưa khắc phục hết. Và đứng về nguyên tắc mà nói, lò phản ứng hạt nhân kiểu cũ luôn luôn có nguy cơ xảy ra sự cố. Hơn thế nữa, việc xử lý rác thải phóng xạ cũng gây nên phản ứng gay gắt từ những người bảo vệ môi trường. Vấn đề là ở chỗ các lò phản ứng hạt nhân bao giờ cũng tạo ra nhiều chất phóng xạ, trong đó có nhiều nguyên tố phóng xạ dài ngày, có thời gian sống hàng ngàn năm. Phương án xử lý với các nguyên tố độc hại này xưa nay vẫn làm là đem chôn hoặc quẳng chúng xuống đại dương. Cả hai phương án này đều rất “vô trách nhiệm” và nguy hiểm cho tương lai.
Gần đây, các nhà vật lý đã thử nghiệm thành công một loại lò phản ứng hạt nhân kiểu mới (được gọi là lò phản ứng hạt nhân điều khiển bằng máy gia tốc hay phương pháp gia tăng năng lượng - Energy Amplifier). Lò phản ứng hạt nhân này là một hệ dưới tới hạn. Điều khiển lò là một máy gia tốc. Máy gia tốc ngừng hoạt động thì lò cũng ngừng hoạt động. Mà muốn máy gia tốc ngừng hoạt động thì chỉ việc ngắt cầu dao điện. Sự cố lò được loại bỏ hoàn toàn. Hơn thế nữa, lò kiểu mới này chẳng những không sinh ra các nguyên tố phóng xạ dài ngày mà còn có khả năng đốt các rác thải phóng xạ đã được tích lũy trong công nghệ hạt nhân. Trong vòng mươi năm nữa, nhà máy điện hạt nhân dựa trên lò phản ứng hạt nhân kiểu này sẽ trở thành thương phẩm. Có lẽ đây là một phương án tốt nhất hiện nay để thỏa mãn nhu cầu năng lượng của quốc gia trước khi phương án sử dụng năng lượng nhiệt hạch (tổng hợp các hạt nhân nhẹ thành các hạt nhân nặng - Nuclear Fusion) trở thành phổ biến.
- Nghiên cứu, chế tạo các thiết bị tiết kiệm năng lượng. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước đã thúc đẩy các nhà công nghệ ở nhiều nước như Mỹ, Nhật chế tạo ra các thiết bị tiết kiệm năng lượng, với hiệu suất cao. Các công nghệ này đã giúp họ đứng vững khi giá dầu tăng vọt và là những mặt hàng có tính cạnh tranh cao trên thị trường sau đó và ngay cả bây giờ. Giá dầu mỏ tăng còn thúc đẩy họ đưa ra các công nghệ mới trong tìm kiếm, khai thác dầu và họ đã tìm ra các mỏ dầu rất lớn ở biển Bắc. Một số nước khác, như Liên Xô, thì ngược lại, là nước có nhiều dầu mỏ, cuộc khủng hoảng thời đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến Liên Xô nếu không muốn nói là Liên Xô được hưởng lợi. Nhưng sau khủng hoảng, Liên Xô không còn khả năng xuất khẩu công nghệ và máy móc do tiêu hao năng lượng quá lớn. Hậu quả này còn kéo dài cho đến tận ngày nay. Cơ cấu xuất khẩu của Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ gần như một nước đang phát triển (chủ yếu là sản xuất nguyên liệu như dầu thô, gỗ, than đá… giá trị gia tăng rất ít và phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài).
Thiết nghĩ đó cũng là những bài học kinh nghiệm cho chính chúng ta. Trong việc tìm kiếm phương án giải quyết các nguồn năng lượng cho quốc gia, ngành điện nên tham khảo ý kiến các chuyên gia, xem xét lại vấn đề độc quyền. Nếu độc quyền thì sau này có phải chịu trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân khi xảy ra hậu quả xấu hay không? Nhà nước vẫn nên có một chương trình ưu tiên nghiên cứu về năng lượng. Ưu tiên đặc biệt có lẽ nên dành cho những nghiên cứu hợp tác với những nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến để ta có thể học hỏi một cách tự chủ, đào tạo cán bộ và hội nhập một cách chủ động trong lĩnh vực này, chứ không phải chỉ cậy nhờ ở những công ty mà mục tiêu của họ chỉ là bán hàng và cao hơn một chút là chăm sóc khách hàng mà thôi. Chúng ta nên có một chiến lược lâu dài về năng lượng, bao gồm cả việc đào tạo nhân lực phát triển các công nghệ liên quan đến năng lượng trước mắt và lâu dài. Chiến lược này không chỉ là tổng sơ đồ phát triển ngành điện với “chiến lược” duy nhất luôn luôn được đem ra sử dụng là tăng giá khi gặp khó khăn.
Nguồn: tchdkh.org.vn, tháng 06/2006








