Năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước
1. Thực trạng năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam
Nguồn nhân lực (NNL) được hiểu là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Quan niệm trên có 3 điểm cốt lõi gắn liền với NNL là: Trình độ được đào tạo; sức khỏe và phẩm chất, đạo đức tốt; khả năng đáp ứng được nhu cầu của công việc đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của NNL chính là nâng cao đồng thời cả 3 vấn đề nêu trên trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC) là một bộ phận đặc biệt, kết tinh những gì tinh túy nhất của nguồn nhân lực. Đó là lực lượng lao động có khả năng đáp ứng nhu cầu cao của thực tiễn và biết cách giải quyết tối ưu những nhu cầu của thực tiễn. NNLCLC được đặc trưng bởi trình độ học vấn và chuyên môn cao, có khă năng tiếp thu những kiến thức mới, có năng lực sáng tạo, biết vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ, kinh nghiệm sản xuất vào thực tiễn; có phẩm chất công dân tốt, đem lại năng suất, chất lượng hiệu quả lao động cao hơn so với nguồn nhân lực lao động phổ thông.
Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đến đầu năm 2010, cả nước có trên 47 triệu lao động trên tổng số hơn 88 triệu dân, đứng thứ 3 trong khu vực và đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội của tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam. Nước ta là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá cao (trên 60% số dân trong độ tuổi 15 – 60 (độ tuổi lao động) và mỗi năm tăng thêm khoảng 1,2 triệu người vào độ tuổi lao động. Cơ cấu nguồn nhân lực trẻ (tỷ lệ thanh niên 15-29 tuổi chiếm 47,5% dân số trong độ tuổi lao động). Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có 46,8 triệu người. Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Về chất lượng nguồn nhân lực, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở khu vực có tỷ lệ người lớn biết chữ và trẻ em ở trong độ tuổi đến trường khá cao. Sau hơn 20 năm đổi mới, lực lượng lao động có tỷ lệ lao động qua đào tạo ở nước ta đã tăng từ 7,6% (năm 1986) lên 28% (số có chứng chỉ được đào tạo từ 3 tháng trở lên) (năm 2010). So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, người lao động Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội như: thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao động quốc tế.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Mặc dù các chỉ số thống kê hàng năm về giáo dục ở nước ta khá cao (hơn 90% dân số biết chữ, nhiều địa phương đã thực hiện xong chương trình phổ cập giáo dục cấp tiểu học cơ sở, trung học cơ sở v.v…), nhưng trên thực tế, chất lượng giáo dục ở nước ta còn ở mức thấp. Báo cáo phát triển thế giới năm 2006 của Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra nhận định: Việt Nam chỉ có 2% dân số được học từ 13 năm trở lên, tụt hậu khá xa so với các nước trong khu vực. Và, Việt Nam xếp hạng chót trong khu vực với tỷ lệ 10% số người trong độ tuổi 20-24 học đại học. Tỷ lệ này ở Trung Quốc là 15%, Thái Lan là 41% và Hàn Quốc là 89%.
Sau hơn 30 năm tiến hành công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước hoạt động trong ĩnh vực nông nghiệp. Tỷ lệ học sinh, trường các loại, trường đại học, tỷ lệ tốt nghiệp đại học, tỷ lệ học vị tiến sĩ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn so với tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương với Thái Lan. Nhưng chất lượng lại là vấn đề đáng quan tâm. Điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2006 cho thấy, cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó, nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác, rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hằng năm chỉ bằng 1/4 của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số người nhận bằng tiến sĩ hằng năm của ta thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi. Theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2007-2008 Diễn đàn kinh tế thế giới, tổng số quốc gia tham gia xếp hạng là 131, nguồn nhân lực Việt Nam chỉ ở mức trung bình của thế giới (3,39 điểm so với điểm tối đa là 6,01) và mất cân đối nghiêm trọng. Ở Việt Nam, cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1,4 và 10. Nước ta hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của Trung Quốc khoảng gấp đôi của nước ta. Các cuộc điều tra theo hướng khác cũng cho thấy, mức độ sẵn sàng tham gia “sân chơi” thế giới của người lao động nước ta cũng còn hạn chế.
Cho đến nay, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Tính đến năm 2010, tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn cao (21,6%), tỷ lệ lao động trong các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn lớn (48,2%), tỷ lệ lao động xã hội chưa qua đào tạo chiếm một tỷ lệ đa số. Bên cạnh đó, thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực nước ta những năm qua còn quá nhiều bất cập. Cho đến nay, chúng ta mới có chiến lược tổng thể trong việc xây dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển đất nước giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020. Việc quy hoạch, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực giữa các ngành, vùng và địa phương trong cả nước cũng còn nhiều chồng chéo và thiếu các mục tiêu cụ thể. Điều đó dẫn đến tình trạng vừa “thừa” vừa “thiếu” nhân lực trong các ngành, vùng, địa phương. Một vấn đề nữa thường được nhắc đến là sự lạc hậu về nội dung và phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Các phương pháp dạy và học của chúng ta hiện nay thường tạo ra sự thụ động đối với người học, như nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng thực hành. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất cập, người học thường ít vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn làm được việc thì người học phải chấp nhận qua một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí về tiền của mà còn lãng phí về thời gian đối với xã hội và người học, v.v…
Nhìn chung, trong so sánh quốc tế trình độ, chất lượng của nhân lực Việt Nam còn thấp khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới (Bảng 1).
Như vậy, theo nhóm chỉ số đặc trưng cơ bản về chất lượng nguồn nhân lực (theo trình độ giáo dục đại học và đào tạo nhân lực), nhân lực của nước ta chỉ ở mức trung bình của thế giới (3,39 điểm so với điểm tối đa là 6,01) và thấp thua đáng kể so với các nước đang phát triển (Trung Quốc, Thái Lan) và các nước phát triển (CHLB Đức, Hàn Quốc) (Bảng 1).
Bảng 1: so sánh năng lực cạnh tranh của nhân lực Việt Nam và một số nước trên thế giới 2008
Tên nước | Chỉ số về giáo dục đại học và đào tạo nhân lực | Chỉ số về sức khỏe và giáo dục tiểu học | Chỉ số về năng lực cạnh tranh kinh tế |
1. Việt Nam - Xếp hạng - Điểm số | 93 3,39 | 88 5,14 | 78 |
2. Trung Quốc - Xếp hạng - Điểm số | 78 | 61 5,49 | 57 |
3. Thái Lan - Xếp hạng - Điểm số | 44 | 63 5,47 | 37 |
4. Hàn Quốc - Xếp hạng - Điểm số | 6 5,65 | 27 6,08 | 18 |
5. CHLB Đức - Xếp hạng - Điểm số | 20 5,33 | 40 5,88 | 2 |
Quốc gia xếp thứ 1 với số điểm cao nhất | Phần Lan 6,01 | Phần Lan 6,58 | Hoa Kỳ |
Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2007-2008. Diễn đàn kinh tế thế giới
Theo tập đoàn tư vấn quốc tế Kearney (4/2004) với từ ngữ chính xác là “most attractive offshore location- nơi thu hút gia công dịch vụ tốt nhất” đã đánh giá chỉ tiêu nhân lực của Việt Nam với số điểm 4,70/10, được xếp hạng 20/25 nước được chọn vào vòng chung kết. Trong đó, chỉ tiêu nhân lực của Việt Nam, mà chúng ta vẫn thường đánh giá cao về tiềm năng, xếp cuối bảng với điểm số 0,35, kém nước đứng đầu là Ấn Độ (1,39) tới 4 lần (Bảng 2). Chỉ tiêu này được tính thông qua các tiêu chí: - Kỹ năng (qui mô của thị trường gia công CNTT và BPO (gia công quá trình kinh doanh), chất lượng đào tạo về CNTT và quản trị kinh doanh) – Nguồn nhân lực (số lượng nhân lực nói chung và nhân lực có trình độ đại học)- Giáo dục và ngôn ngữ (việc đào tạo, kiểm tra trình độ giáo dục và ngôn ngữ được chuẩn hóa) – Tỷ lệ tiêu hao nhân lực (quan hệ giữa nhu cầu tăng trưởng việc làm liên quan đến BPO và chỉ số thất nghiệp). Về kỹ năng chuyên môn, Việt Nam ở vị trí thấp nhất (0,04). Ấn Độ xếp hạng cao nhất (1,03). Về nguồn lực, Việt Nam xếp thứ 11/25 (0,04 điểm), đồng hạng với Canada và Argentina. Xếp hạng cao nhất là Trung Quốc, thấp nhất là New Zealand, Singapore, Costa Rice và Ireland (dân số các nước này thấp hoặc rất thấp). Về chuẩn hóa giáo dục, Việt Nam được 0,08 điểm, xếp thứ 23/25, chỉ trên Nam Phi và Brazil. Vị trí đầu bảng thuộc về Canada, New Zealand và Australia. Về chuẩn hóa ngôn ngữ, Việt Nam ở vị trí thứ 24/25 (0,04 điểm), chỉ xếp trên Trung Quốc. Bốn nước Canada, Autralia, New Zealand và Ireland ở vị trí hàng đầu. Về tỷ lệ tiêu hao nhân lực, Việt Nam xếp thứ 17/25 đồng hạng với Autralia và Hungary (0,15 điểm). Vị trí đầu bảng thuộc về Nam Phi.
2. Những vấn đề cần phải giải quyết
Từ những vấn đề nêu trên, hướng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; yêu cầu nội dung phát triển NNL và NNLCLC cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là,sự gia tăng về số lượng NNL chất lượng cao.
Cần lựa chọn khâu đột phá làm gia tăng về số lượng lao động tri thức và lao động dữ liệu (bao gồm đội ngũ nhân lực khoa học – công nghệ) và đây là lực lượng nòng cốt để tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo ra tri thức hiện đại. Kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo nước ngoài, chú trọng việc hợp tác quốc tế trong đào tạo với nguồn kinh phí được Nhà nước đầu tư thỏa đáng.
Hai là,phát triển và chuyển dịch cơ cấu NNL chất lượng cao.
Thực tiễn trên thế giới đã chứng minh xu hướng phát triển kinh tế tri thức gắn với xu hướng phát triển một số ngành đặc thù, được gọi là ngành công nghiệp tri thức, trong đó hai ngành được coi là “chiếc máy cái” chính là giáo dục và đào tạo và công nghệ thông tin.
Ba là,phát huy một số tố chất tiêu biểu của NNL Việt Nam.
Phát huy long yêu nước và tính tự tôn dân tộc của mỗi người dân, khả năng tự điều chỉnh và thích nghi để vươn lên làm chủ trước sự thay đổi nhanh chóng của vốn tri thức nhân loại. Vì vậy, chỉ những người có khả năng thích ứng và linh hoạt trong hấp thụ vốn tri thức của thời đại mới thực sự làm chủ được những yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Điều này cũng có nghĩa là
Bảng 2: Chỉ tiêu nhân lực các nước gia công dịch vụ tốt nhất
STT | Nước | Kỹ năng | Nguồn lực | Chuẩn hóa giáo dục | Chuẩn hóa ngôn ngữ | Tiêu hao | Tổng |
01 | Ấn Độ | 1,03 | 0,47 | 0,25 | 0,21 | 0,13 | 2,09 |
02 | Canada | 0,82 | 0,04 | 0,44 | 0,45 | 0,19 | 0,94 |
03 | Autralia | 0,52 | 0,02 | 0,44 | 0,45 | 0,15 | 1,58 |
23 | Thổ Nhĩ Kỳ | 0,21 | 0,06 | 0,12 | 0,09 | 0,16 | 0,64 |
24 | Thái Lan | 0,25 | 0,06 | 0,14 | 0,00 | 0,12 | 0,57 |
25 | Việt Nam | 0,04 | 0,04 | 0,08 | 0,04 | 0,15 | 0,35 |
Nguồn: Lê Trường Tùng (xếp hạng nguồn nhân lực Việt Nam – 11/2/2009)
Bảng 3: Xếp hạng chung
Thứ hạng | Nước | Tài chính | Môi trường kinh doanh | Nhân lực | Tổng |
1 | Ấn Độ | 3,72 | 1,31 | 2,09 | 7,12 |
2 | Trung Quốc | 3,32 | 0,93 | 1,36 | 5,61 |
3 | Malaisia | 3,09 | 1,77 | 0,73 | 5,59 |
4 | Czech | 2,64 | 2,02 | 0,92 | 5,58 |
5 | Singapore | 1,47 | 2,63 | 1,36 | 5,46 |
6 | Philippines | 3,59 | 0,92 | 0,94 | 5,45 |
20 | Việt Nam | 3,65 | 0,70 | 0,35 | 4,70 |
21 | Nga | 3,25 | 0,52 | 0,89 | 4,65 |
22 | Tây Ban Nha | 1,12 | 2,05 | 1,38 | 4,55 |
Nguồn: Lê Trường Tùng (xếp hạng nguồn nhân lực Việt Nam – 11/2/2009)
Nguồn nhân lực chất lượng cao cũng phải có bản lĩnh nghề nghiệp để không bị động trước những thay đổi nhanh chóng cả về nội dung và cách thức tiến hành của công việc của thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Mặt khác, việc hình thành và phát huy tố chất sáng tạo vượt trội của NNL được xem là yêu cầu tiên quyết về nhân lực chất lượng cao trong điều kiện nền kinh tế tri thức và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Đó là nguồn nhân lực bao gồm cả những người có nhân cách, trí tuệ phát triển, có một số phẩm chất nổi bật mà rất ít người có, đồng thời phải là người giàu tính sáng tạo, có tư duy độc đáo, giải quyết các công việc nhanh, chính xác, mang lại hiệu quả rất cao. Tố chất sáng tạo của NNL chất lượng cao không chỉ thể hiện ra ở khả năng phát minh, sáng chế mà cốt lõi là sự đổi mới trong quan niệm, lối tư duy và phương pháp làm chủ quá trình phát triển. Đó là những nhân lực tư duy (Thinking manpower) và nhân lực sáng nghiệp (Entrepreneurial manpower), họ không chỉ biết tự tạo việc làm cho mình mà cao hơn là còn tạo việc làm cho nhiều người khác.
Tóm lại,Nâng cao năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực nước ta để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức là một yêu cầu khách quan. Vì vậy, nội dung phát triển cần hướng tới những vấn đề về số lượng, chất lượng và cơ cấu của NNL trong đó chú trọng đặc biệt đến vấn đề khai thác, trọng dụng và sử dụng nhân lực trí thức; kết hợp chặt chẽ giữa trọng thị, trọng dụng và trọng đãi nhân tài. Ba khâu này liên quan chặt chẽ với nhau trong từng thời điểm, từng lĩnh vực, những khâu này có thế mạnh, yếu khác nhau nhưng không được bỏ qua khâu nào. Việc trọng dụng sẽ là động lực quan trọng thu hút nhân lực trí thức. Thực sự trọng dụng là biểu hiện tốt đẹp của trọng thị. Trọng đãi là sự trả công xứng đáng cho đóng góp của nhân tài đối với cơ quan sử dụng. Cụ thể hóa ba khâu trọng thị, trọng dụng và trọng đãi nhân tài sẽ tạo ra được các giải pháp tổng thể cho thu hút nhân tài. Những nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ và làm tiền đề cho nhau và không được coi nhẹ mặt nào. Sự phát triển vừa mang tố chất dân tộc, vừa mang tố chất của thời đại nhất định sẽ tạo ra một bước ngoặc lớn trong quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh NNL của nước ta so với các nước trong khu vực và thế giới trong thời gian tới./.








