Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 22/06/2012 21:29 (GMT+7)

Năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước

1. Thực trạng năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam

Nguồn nhân lực (NNL) được hiểu là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.

Quan niệm trên có 3 điểm cốt lõi gắn liền với NNL là: Trình độ được đào tạo; sức khỏe và phẩm chất, đạo đức tốt; khả năng đáp ứng được nhu cầu của công việc đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của NNL chính là nâng cao đồng thời cả 3 vấn đề nêu trên trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC) là một bộ phận đặc biệt, kết tinh những gì tinh túy nhất của nguồn nhân lực. Đó là lực lượng lao động có khả năng đáp ứng nhu cầu cao của thực tiễn và biết cách giải quyết tối ưu những nhu cầu của thực tiễn. NNLCLC được đặc trưng bởi trình độ học vấn và chuyên môn cao, có khă năng tiếp thu những kiến thức mới, có năng lực sáng tạo, biết vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ, kinh nghiệm sản xuất vào thực tiễn; có phẩm chất công dân tốt, đem lại năng suất, chất lượng hiệu quả lao động cao hơn so với nguồn nhân lực lao động phổ thông.

Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đến đầu năm 2010, cả nước có trên 47 triệu lao động trên tổng số hơn 88 triệu dân, đứng thứ 3 trong khu vực và đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội của tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam. Nước ta là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá cao (trên 60% số dân trong độ tuổi 15 – 60 (độ tuổi lao động) và mỗi năm tăng thêm khoảng 1,2 triệu người vào độ tuổi lao động. Cơ cấu nguồn nhân lực trẻ (tỷ lệ thanh niên 15-29 tuổi chiếm 47,5% dân số trong độ tuổi lao động). Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có 46,8 triệu người. Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.

Về chất lượng nguồn nhân lực, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở khu vực có tỷ lệ người lớn biết chữ và trẻ em ở trong độ tuổi đến trường khá cao. Sau hơn 20 năm đổi mới, lực lượng lao động có tỷ lệ lao động qua đào tạo ở nước ta đã tăng từ 7,6% (năm 1986) lên 28% (số có chứng chỉ được đào tạo từ 3 tháng trở lên) (năm 2010). So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, người lao động Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội như: thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao động quốc tế.

Tuy nhiên, so với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Mặc dù các chỉ số thống kê hàng năm về giáo dục ở nước ta khá cao (hơn 90% dân số biết chữ, nhiều địa phương đã thực hiện xong chương trình phổ cập giáo dục cấp tiểu học cơ sở, trung học cơ sở v.v…), nhưng trên thực tế, chất lượng giáo dục ở nước ta còn ở mức thấp. Báo cáo phát triển thế giới năm 2006 của Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra nhận định: Việt Nam chỉ có 2% dân số được học từ 13 năm trở lên, tụt hậu khá xa so với các nước trong khu vực. Và, Việt Nam xếp hạng chót trong khu vực với tỷ lệ 10% số người trong độ tuổi 20-24 học đại học. Tỷ lệ này ở Trung Quốc là 15%, Thái Lan là 41% và Hàn Quốc là 89%.

Sau hơn 30 năm tiến hành công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước hoạt động trong ĩnh vực nông nghiệp. Tỷ lệ học sinh, trường các loại, trường đại học, tỷ lệ tốt nghiệp đại học, tỷ lệ học vị tiến sĩ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn so với tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương với Thái Lan. Nhưng chất lượng lại là vấn đề đáng quan tâm. Điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2006 cho thấy, cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó, nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác, rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hằng năm chỉ bằng 1/4 của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số người nhận bằng tiến sĩ hằng năm của ta thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi. Theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2007-2008 Diễn đàn kinh tế thế giới, tổng số quốc gia tham gia xếp hạng là 131, nguồn nhân lực Việt Nam chỉ ở mức trung bình của thế giới (3,39 điểm so với điểm tối đa là 6,01) và mất cân đối nghiêm trọng. Ở Việt Nam, cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1,4 và 10. Nước ta hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của Trung Quốc khoảng gấp đôi của nước ta. Các cuộc điều tra theo hướng khác cũng cho thấy, mức độ sẵn sàng tham gia “sân chơi” thế giới của người lao động nước ta cũng còn hạn chế.

Cho đến nay, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Tính đến năm 2010, tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn cao (21,6%), tỷ lệ lao động trong các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn lớn (48,2%), tỷ lệ lao động xã hội chưa qua đào tạo chiếm một tỷ lệ đa số. Bên cạnh đó, thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực nước ta những năm qua còn quá nhiều bất cập. Cho đến nay, chúng ta mới có chiến lược tổng thể trong việc xây dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển đất nước giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020. Việc quy hoạch, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực giữa các ngành, vùng và địa phương trong cả nước cũng còn nhiều chồng chéo và thiếu các mục tiêu cụ thể. Điều đó dẫn đến tình trạng vừa “thừa” vừa “thiếu” nhân lực trong các ngành, vùng, địa phương. Một vấn đề nữa thường được nhắc đến là sự lạc hậu về nội dung và phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Các phương pháp dạy và học của chúng ta hiện nay thường tạo ra sự thụ động đối với người học, như nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng thực hành. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất cập, người học thường ít vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn làm được việc thì người học phải chấp nhận qua một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí về tiền của mà còn lãng phí về thời gian đối với xã hội và người học, v.v…

Nhìn chung, trong so sánh quốc tế trình độ, chất lượng của nhân lực Việt Nam còn thấp khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới (Bảng 1).

Như vậy, theo nhóm chỉ số đặc trưng cơ bản về chất lượng nguồn nhân lực (theo trình độ giáo dục đại học và đào tạo nhân lực), nhân lực của nước ta chỉ ở mức trung bình của thế giới (3,39 điểm so với điểm tối đa là 6,01) và thấp thua đáng kể so với các nước đang phát triển (Trung Quốc, Thái Lan) và các nước phát triển (CHLB Đức, Hàn Quốc) (Bảng 1).

Bảng 1: so sánh năng lực cạnh tranh của nhân lực Việt Nam và một số nước trên thế giới 2008

Tên nước

Chỉ số về giáo dục đại học và đào tạo nhân lực

Chỉ số về sức khỏe và giáo dục tiểu học

Chỉ số về năng lực cạnh tranh kinh tế

1. Việt Nam

- Xếp hạng

- Điểm số

93

3,39

88

5,14

78

2. Trung Quốc

- Xếp hạng

- Điểm số

78

61

5,49

57

3. Thái Lan

- Xếp hạng

- Điểm số

44

63

5,47

37

4. Hàn Quốc

- Xếp hạng

- Điểm số

6

5,65

27

6,08

18

5. CHLB Đức

- Xếp hạng

- Điểm số

20

5,33

40

5,88

2

Quốc gia xếp thứ 1 với số điểm cao nhất

Phần Lan

6,01

Phần Lan

6,58

Hoa Kỳ

           Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2007-2008. Diễn đàn kinh tế thế giới

Theo tập đoàn tư vấn quốc tế Kearney (4/2004) với từ ngữ chính xác là “most attractive offshore location- nơi thu hút gia công dịch vụ tốt nhất” đã đánh giá chỉ tiêu nhân lực của Việt Nam với số điểm 4,70/10, được xếp hạng 20/25 nước được chọn vào vòng chung kết. Trong đó, chỉ tiêu nhân lực của Việt Nam, mà chúng ta vẫn thường đánh giá cao về tiềm năng, xếp cuối bảng với điểm số 0,35, kém nước đứng đầu là Ấn Độ (1,39) tới 4 lần (Bảng 2). Chỉ tiêu này được tính thông qua các tiêu chí: - Kỹ năng (qui mô của thị trường gia công CNTT và BPO (gia công quá trình kinh doanh), chất lượng đào tạo về CNTT và quản trị kinh doanh) – Nguồn nhân lực (số lượng nhân lực nói chung và nhân lực có trình độ đại học)- Giáo dục và ngôn ngữ (việc đào tạo, kiểm tra trình độ giáo dục và ngôn ngữ được chuẩn hóa) – Tỷ lệ tiêu hao nhân lực (quan hệ giữa nhu cầu tăng trưởng việc làm liên quan đến BPO và chỉ số thất nghiệp). Về kỹ năng chuyên môn, Việt Nam ở vị trí thấp nhất (0,04). Ấn Độ xếp hạng cao nhất (1,03). Về nguồn lực, Việt Nam xếp thứ 11/25 (0,04 điểm), đồng hạng với Canada và Argentina. Xếp hạng cao nhất là Trung Quốc, thấp nhất là New Zealand, Singapore, Costa Rice và Ireland (dân số các nước này thấp hoặc rất thấp). Về chuẩn hóa giáo dục, Việt Nam được 0,08 điểm, xếp thứ 23/25, chỉ trên Nam Phi và Brazil. Vị trí đầu bảng thuộc về Canada, New Zealand và Australia. Về chuẩn hóa ngôn ngữ, Việt Nam ở vị trí thứ 24/25 (0,04 điểm), chỉ xếp trên Trung Quốc. Bốn nước Canada, Autralia, New Zealand và Ireland ở vị trí hàng đầu. Về tỷ lệ tiêu hao nhân lực, Việt Nam xếp thứ 17/25 đồng hạng với Autralia và Hungary (0,15 điểm). Vị trí đầu bảng thuộc về Nam Phi.

2. Những vấn đề cần phải giải quyết

Từ những vấn đề nêu trên, hướng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; yêu cầu nội dung phát triển NNL và NNLCLC cần tập trung vào những vấn đề sau:

Một là,sự gia tăng về số lượng NNL chất lượng cao.

Cần lựa chọn khâu đột phá làm gia tăng về số lượng lao động tri thức và lao động dữ liệu (bao gồm đội ngũ nhân lực khoa học – công nghệ) và đây là lực lượng nòng cốt để tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo ra tri thức hiện đại. Kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo nước ngoài, chú trọng việc hợp tác quốc tế trong đào tạo với nguồn kinh phí được Nhà nước đầu tư thỏa đáng.

Hai là,phát triển và chuyển dịch cơ cấu NNL chất lượng cao.

Thực tiễn trên thế giới đã chứng minh xu hướng phát triển kinh tế tri thức gắn với xu hướng phát triển một số ngành đặc thù, được gọi là ngành công nghiệp tri thức, trong đó hai ngành được coi là “chiếc máy cái” chính là giáo dục và đào tạo và công nghệ thông tin.

Ba là,phát huy một số tố chất tiêu biểu của NNL Việt Nam.

Phát huy long yêu nước và tính tự tôn dân tộc của mỗi người dân, khả năng tự điều chỉnh và thích nghi để vươn lên làm chủ trước sự thay đổi nhanh chóng của vốn tri thức nhân loại. Vì vậy, chỉ những người có khả năng thích ứng và linh hoạt trong hấp thụ vốn tri thức của thời đại mới thực sự làm chủ được những yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Điều này cũng có nghĩa là

           Bảng 2: Chỉ tiêu nhân lực các nước gia công dịch vụ tốt nhất

STT

Nước

Kỹ năng

Nguồn lực

Chuẩn hóa giáo dục

Chuẩn hóa ngôn ngữ

Tiêu hao

Tổng

01

Ấn Độ

1,03

0,47

0,25

0,21

0,13

2,09

02

Canada

0,82

0,04

0,44

0,45

0,19

0,94

03

Autralia

0,52

0,02

0,44

0,45

0,15

1,58

23

Thổ Nhĩ Kỳ

0,21

0,06

0,12

0,09

0,16

0,64

24

Thái Lan

0,25

0,06

0,14

0,00

0,12

0,57

25

Việt Nam

0,04

0,04

0,08

0,04

0,15

0,35

           Nguồn: Lê Trường Tùng (xếp hạng nguồn nhân lực Việt Nam – 11/2/2009)

Bảng 3: Xếp hạng chung

Thứ hạng

Nước

Tài chính

Môi trường kinh doanh

Nhân lực

Tổng

1

Ấn Độ

3,72

1,31

2,09

7,12

2

Trung Quốc

3,32

0,93

1,36

5,61

3

Malaisia

3,09

1,77

0,73

5,59

4

Czech

2,64

2,02

0,92

5,58

5

Singapore

1,47

2,63

1,36

5,46

6

Philippines

3,59

0,92

0,94

5,45

20

Việt Nam

3,65

0,70

0,35

4,70

21

Nga

3,25

0,52

0,89

4,65

22

Tây Ban Nha

1,12

2,05

1,38

4,55

           Nguồn: Lê Trường Tùng (xếp hạng nguồn nhân lực Việt Nam – 11/2/2009)

Nguồn nhân lực chất lượng cao cũng phải có bản lĩnh nghề nghiệp để không bị động trước những thay đổi nhanh chóng cả về nội dung và cách thức tiến hành của công việc của thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Mặt khác, việc hình thành và phát huy tố chất sáng tạo vượt trội của NNL được xem là yêu cầu tiên quyết về nhân lực chất lượng cao trong điều kiện nền kinh tế tri thức và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Đó là nguồn nhân lực bao gồm cả những người có nhân cách, trí tuệ phát triển, có một số phẩm chất nổi bật mà rất ít người có, đồng thời phải là người giàu tính sáng tạo, có tư duy độc đáo, giải quyết các công việc nhanh, chính xác, mang lại hiệu quả rất cao. Tố chất sáng tạo của NNL chất lượng cao không chỉ thể hiện ra ở khả năng phát minh, sáng chế mà cốt lõi là sự đổi mới trong quan niệm, lối tư duy và phương pháp làm chủ quá trình phát triển. Đó là những nhân lực tư duy (Thinking manpower) và nhân lực sáng nghiệp (Entrepreneurial manpower), họ không chỉ biết tự tạo việc làm cho mình mà cao hơn là còn tạo việc làm cho nhiều người khác.

Tóm lại,Nâng cao năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực nước ta để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức là một yêu cầu khách quan. Vì vậy, nội dung phát triển cần hướng tới những vấn đề về số lượng, chất lượng và cơ cấu của NNL trong đó chú trọng đặc biệt đến vấn đề khai thác, trọng dụng và sử dụng nhân lực trí thức; kết hợp chặt chẽ giữa trọng thị, trọng dụng và trọng đãi nhân tài. Ba khâu này liên quan chặt chẽ với nhau trong từng thời điểm, từng lĩnh vực, những khâu này có thế mạnh, yếu khác nhau nhưng không được bỏ qua khâu nào. Việc trọng dụng sẽ là động lực quan trọng thu hút nhân lực trí thức. Thực sự trọng dụng là biểu hiện tốt đẹp của trọng thị. Trọng đãi là sự trả công xứng đáng cho đóng góp của nhân tài đối với cơ quan sử dụng. Cụ thể hóa ba khâu trọng thị, trọng dụng và trọng đãi nhân tài sẽ tạo ra được các giải pháp tổng thể cho thu hút nhân tài. Những nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ và làm tiền đề cho nhau và không được coi nhẹ mặt nào. Sự phát triển vừa mang tố chất dân tộc, vừa mang tố chất của thời đại nhất định sẽ tạo ra một bước ngoặc lớn trong quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh NNL của nước ta so với các nước trong khu vực và thế giới trong thời gian tới./.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.