Mục đích, ý nghĩa của bào chế, chế biến thuốc cổ truyền
chữa bệnh và nâng cao thể trạng con người.
Bào chế, chế biến thuốc phải thoả mãn được ba nguyên tắc cơ bản: Đảm bảo việc “ điều hoà âm dương” của vị thuốc, của người bệnh; Các vị thuốc phải phát huy được “ bổ hư tả thực”. Gắn chặt vấn đề “ biện chứng luận trị” với việc “ tìm thuốc” và “ chế thuốc”. Sau đây là một số mục đích chính của bào chế thuốc.
1. Loại bỏ tạp chất, làm thuốc sạch và thơm: Sau khi thu hái thuốc, động tác đầu tiên là loại bỏ tạp chất, làm cho thuốc sạch. Các tạp chất lẫn lộn cần phải loại bỏ như: Mốc, mọt, cát, sỏi, đất; Các loại không phải là dược liệu; các bộ phận không cần thiết để vị thuốc tinh khiết hơn, lựa chọn được đúng bộ phận dùng. Ví dụ: mạch môn bỏ lõi, ve sầu bỏ đầu và chân; địa long bỏ ruột, cóc chỉ lấy thịt, rắn và tắc kè bỏ nội tạng (trừ mật rắn rất quý phải giữ lại), tắc kè bỏ mắt. Ngưu tất bỏ đầu, kim anh bỏ hạt, tang bì bỏ vỏ mỏng ở ngoài, hương phụ bỏ rễ, tỳ bà diệp và lá han phải bỏ lông vì chúng gây kích thích cổ họng, gây ho. Mã tiền bỏ mầm do chứa nhiều alcaloi độc. Loại bỏ những chất hoá học còn tồn dư sau khi được đưa vào khi trồng trọt và bảo quản thuốc men. Hơn nữa, trong cùng một dược liệu có thể phải tách ra các bộ phận dùng khác nhau như trắc bá diệp tách lá và hạt; câu kỷ tử tách vỏ rễ và quả... Riêng ma hoàng có rể và thân có tác dụng trái ngược nhau cần phải tách kỹ. Ngoài ra, việc loại bỏ các bộ phận không cần thiết, bất lợi còn giúp để dễ sử dụng, tránh được các mùi vị khó chịu, giúp cho việc chiết suất như hãm, ngâm, sắc... được thuận lợi, tạo hiệu quả điều trị cao hơn. Ví như thảo quyết minh có tác dụng tẩy mạnh, mùi nồng, khó uống, sao vàng sẽ có mùi thơm cà phê.
Thuốc sạch và đúng bộ phận dùng là yêu cầu hàng đầu về vệ sinh an toàn dược phẩm cổ truyền. Thuốc có nguồn gốc khoáng vật thường được chế biến tinh chế dựa vào tính chất thăng hoa của thành phần hoạt chất. Ví dụ: chế lưu huỳnh từ khoáng vật bằng phương pháp chế sương (nung để thu lấy lưu huỳnh thăng hoa).
2. Tạo vị thế hàng hoá đặc biệt cho vị thuốc: Thuốc là hàng hoá đặc biệt. Nó vừa mang tính phục vụ sức khoẻ con người vừa mang tính kinh tế cao. Yêu cầu của bào chế là phải tạo ra vị thuốc có: Hình dáng và màu sắc đẹp, mùi vị thơm ngon đặc trưng, hấp dẫn, chất lượng cao. Tiện lợi khi bảo quản, lưu chuyển, quản lý và sử dụng. Giá cả hợp lý, thoả mãn nhu cầu về thị hiếu, thói quen của đa số người tiêu dùng. Hiệu quả điều trị cao, an toàn cho người sử dụng và được y học hiện đại công nhận. Điều đó có nghĩa là xây dựng vị thế cho thuốc cao hơn trong lòng người tiêu dùng, biến nó trở thành một hàng hoá đặc biệt trên thương trường, có tính cạnh tranh cao. Hiện nay đã có nhân sâm đóng hộp, tam thất, linh chi tán, lục vị ẩm và một số chế phẩm khác được người tiêu dùng ưa chuộng.
3. Thay đổi tính vị, từ đó thay đổi tác dụng của thuốc và tạo ra nguồn thuốc phong phú: Mục đích này xuất phát từ học thuyết Âm dương với nguyên lý cân bằng âm dương trong cơ thể, đó là sự cân bằng hoạt động của tạng phủ, quá trình khí hoá, các quá trình ức chế và hưng phấn trong cơ thể... Chúng ta đều biết tính vị là hai đặc trưng của vị thuốc, biểu hiện xu hướng và cường độ tác dụng của thuốc. Các yếu tố làm thay đổi khí vị của thuốc như nhiệt độ trong các phương pháp sao, nướng, chưng, lùi..., và việc sử dụng các phụ liệu đưa vào tính chất, khí vị của từng phụ liệu...
3.1. Bào chế làm tính vị của vị thuốc thay đổi sẽ tạo ra tác dụng chữa bệnh mới và làm phong phú nguồn thuốc. Một số vị thuốc có thể thay đổi tác dụng tạo ra tác dụng mới ngoài tác dụng vốn có của nó. Thậm chí, bào chế còn tạo ra tác dụng mới có khuynh hướng ngược lại với tác dụng vốn có ban đầu. Đây chính là biện pháp làm tăng hoặc giảm tính âm, tính dương của thuốc. Ví dụ: Bồ hoàng sống có tác dụng hoạt huyết (động), tán sao có tác dụng chỉ huyết (tĩnh). Táo nhân, tâm sen dùng sống gây mất ngủ (động); sao đen có tác dụng an thần gây ngủ (tĩnh). Sinh địa vị đắng, ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lương huyết thuộc âm; Sau khi bào chế thành thục địa cho vị ngọt, tính ôn, thuộc âm trong dương, có tác dụng bổ âm, bổ huyết. Sài hồ có tác dụng (khuynh hướng) thăng đề, sau khi chế với giấm có tác dụng giáng. Hoàng liên là thuốc giáng và đi vào trung tiêu, sau khi sao với rượu thì có tính thăng và đi vào thượng tiêu. Tri mẫu, bản chất là thăng, khi sao với muối lại trở thành giáng. Diên hồ bản chất là thăng khi sao với giấm nó trở thành giáng. Bán hạ, tỳ bà diệp bản chất là trầm, sao với gừng nó trở thành phù, có tác dụng phát tán. Hoa hoè vì sao, sao vàng, sao cháy đều có tác dụng hạ huyết áp, nhưng dạng sao cháy tác dụng tốt hơn. Ngoài ra, còn một số thuốc khi ở dạng nguyên liệu thì không tác dụng trị bệnh, chúng chỉ có tác dụng trị bệnh sau khi đã bào chế theo phương pháp riêng. Tóc (huyết dư) chỉ làm thuốc cầm máu sau khi đốt tồn tính. Mẫu lệ, cửu khổng, trân châu nung hoặc tôi trong giấm có tác dụng cố tinh sáp niệu. Xuyên sơn giáp sao cách cát hoặc nướng đến khi chín phồng đều được dùng để hoạt huyết, giải độc, tiêu mủ.
3.2. Các hình thức thay đổi tính vị của thuốc: Thứ nhất: Chế biến làm tăng tính âmcủa vị thuốc như Trạch tả trích muối, nga truật nấu với giấm... Thứ hai: Chế biến làm giảm tính âm, tính hàn lương, đại hàn; tăng tính ấm của thuốc hànthông qua các phương pháp như hoả chế, thuỷ hoả hợp chế hoặc dùng các phụ liệu tính ôn như sa nhân, gừng, rượu... Ví dụ: sinh địa vị đắng, hơi hàn với lượng đường toàn phần là 15%, tác dụng thanh nhiệt lương huyết thuộc âm. Khi sao khô hoặc chế biến thành thục địa thì có vị ngọt, tính hơi ôn, tác bụng bổ âm, bổ huyết và giảm tính âm, lượng đường toàn phần đạt tới 36% kèm theo nhiều thành phần hoá học khác biến đổi. Sinh khương vị cay tính ấm, công năng phát hãn giải biểu hàn dùng trong bệnh cảm mạo phong hàn sốt cao, ho. Song, nếu đem nướng cháy ta có thán khương, vị ít cay hơn do được giảm bớt lượng tinh dầu; khi đó thuốc có tác dụng chữa đầy chướng, đau bụng, buồn nôn, hoắc loạn... Hoè hoa vị đắng tính lạnh có tác dụng thanh nhiệt lương huyết chữa đau mắt đỏ, cao huyết áp. Sau khi sao nó có tính bình, mùi thơm, chữa xuất huyết do chảy máu cam, ho ra máu, lỵ huyết, băng huyết. Trong hoè hoa có chứa Rutiozit từ 10-28%, chất này có tác dụng chống sự giòn vỡ của mao mạch và giữ cho sự thẩm thấu của huyết quản bình thưởng. Sơn tra trước khi sao có vị chua, ngọt, tính ôn có tác dụng kiện tỳ, kích thích tiêu hoá. Sau khi sao có vị đắng, hơi chua, tính ấm làm tăng thêm tác dụng kiện tỳ, tiêu thực. Đó là do sau khi sao các axit hữu cơ trong vị thuốc giảm từ 65-66% và vì vậy vị chua giảm rõ rệt. Thứ ba: Chế biến làm tăng tính dương của vị thuốc. Đảng sâm tính ôn thuộc dương có thể trích gừng để tăng tính dương, tăng công năng bổ khí của thuốc. Thực chất đây là phương pháp làm giảm tính không dương tăng tính ôn nhiệt cho vị thuốc. Đặc biệt các thuốc về khi (dương) thường làm phụ liệu cho các thuốc về vị (âm) để tăng tính ấm, tính dương. Để giảm tính nê trệ của các thuốc sinh tân dịch như thục địa, sinh địa, huyền sâm... Người ta thường dùng các phụ liệu mang khí nhiều như sinh khương, sa nhân, rượu... Thứ tư: Chế biến làm giảm tính dương, tính đại nhiệtcủa thuốc. Có thể chế biến bằng cách ngâm dược liệu trong dịch nước vo gạo, nước cam thảo hoặc nước muối ăn hoặc sao đen. Ví dụ: sinh phụ tử đại nhiệt, đại độc; tính dương rất mãnh liệt. Khi ngâm với dung dịch đảm ba (magiê clorua) thì tính độc, tính nhiệt giảm đi và có thể dùng theo đường uống.
4. Tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc
4.1. Giải pháp làm tăng tính qui kinh của thuốc
Theo lý luận chung, các chứng bệnh sinh ra đều xuất phát từ yếu tố nội thương hoặc ngoại thương hoặc bất nội ngoại thương có liên quan đến các tạng phủ, vinh vệ, khí huyết, kinh lạc, vùng bị bệnh... không vượt quát quy nạp của âm dương ngũ hành. Nhiều phương pháp chế biến thuốc khác nhau, phụ liệu khác nhau để tăng tác dụng (hiệu lực) của thuốc và tạo cho thuốc có màu sắc hoặc mùi vịtương ứng với hànhtrong thuyết ngũ hành. Đây là giải pháp nhằm tăng tính qui kinh của vị thuốc. Muốn tăng tác dụng của thuốc ở tỳ, vị và để tăng tác dụng kiện tỳ: phải chế biến để vị thuốc có màu vàng, vị ngọt, mùi thơm. Có các phương pháp như: chế biến thuốc bằng phương pháp sao vàng, sao với cám gạo..., gạo; Chế biến bằng phương pháp sử dụng các phụ liệu có màu vàng như sao trực tiếp với hoàng thổ, bích thổ, phục long can... hoặc tẩm với các phụ kiện rồi sao: mật ong, cam thảo, nước vo gạo... chế biến bằng phương pháp sử dụng các phụ liệu có vị ngọt: mật ong, đường, cam thảo... Muốn tăng tác dụng kiện tỳ của bạch truật thì chế với cám, hoàng thổ, bích thổ hoặc sao vàng. Hoài sơn sao vàng; hoàng kỳ trích mật...
Muốn tăng tác dụng của thuốc ở thận, bàng quang “phải chế biến để vị thuốc có màu đen, vị mặnbằng cách chế biến thuốc với nước muối ăn để tạo vị thuốc có vị mặn hoặc chế với nước đậu đen hoặc thán sao để tạo vị thuốc có màu đen. Ví dụ Hà thủ ô chế biến với nước đậu đen, đỗ trọng và cẩu tích trích muối; thục địa chưng rượu, sa nhân, sinh khương, hoè hoa thán sao và trắc bách diệp thán sao để cầm máu với ý nghĩa “đen chỉ huyết”, thuỷ chế hoả (tưới nước vào lửa)...
Muốn tăng tác dụng của thuốc ở phếphải chế biến để vị thuốc có vị cay, màu trắng. Các phụ liệu dẫn thuốc qui kinh phếlà: nước gừng, nước phèn chua, nước cam thảo... Ví dụ như tạo vị thuốc có vị cay: bán hạ, đảng sâm chế dịch nước gừng sẽ qui kinh phế nhờ vị cay và bản tính qui kinh tỳ, vị, phế của sinh khương. Hoặc tạo vị thuốc có màu trắng: vỏ rễ dâu (tang bì) bóc lấy vỏ, rồi bỏ vỏ mỏng phía ngoài sẽ thu được sản phẩm toàn màu trắng gọi là tang bạch bì...
Muốn tăng tác dụng của thuốc ở tâmphải chế biến thuốc để vị thuốc có vị đắng, màu đỏ. Muốn vậy phải chế biến thuốc với nước đồng tiện, hoặc tẩm bột chu sa rồi mang phơi âm can. Ví dụ: bá tử nhân, xương bồ... tẩm bột chu sa rồi mang phơi âm can để có màu đỏ và làm tăng tác dụng dưỡng tâm, an thần.
Muốn tăng tác dụng của thuốc ở can, đởmthì chế biến để vị thuốc có vị chua, màu xanh. Qui kinh can: chế biến thuốc với giấm vì giấm có vị chua. Ví dụ: hương phụ, sài hồ, huyền hồ chế giấm... Chế cho thuốc có màu xanh thường chế đởm lợn như nam tinh, bán hạ chế đởm lợn. Trên đây chính là phương pháp tăng tính qui kinh của vị thuốc, làm cho tác dụng và chỉ định chữa bệnh của vị thuốc được tăng cường và mở rộng. Để dẫn thuốc phía trên để thăng đề, cần chế biến thuốc với rượu như xuyên khung, đại hoàng, thăng ma trích rượu...
Tuy nhiên cần phải nhớ rằng:Việc sử dụng các phụ liệu để chế biến thuốc phải phù hợp với tính qui kinh bản thân vốn có của thuốc, không bừa bãi làm thay đổi tính chất qui kinh. Ví dụ: bạch truật qui vào kinh tỳ, vị. Chế biến để tăng tác dụng kiện tỳ vị, không thể chế biến để bổ can thận. Mặt khác, người ta thường không dùng các phụ liệu làm ảnh hưởng tới tác dụng của thuốc. Ví dụ: thuốc bổ thận dương tâm cam thảo sẽ hạn chế các thuốc đó qui kinh thận; ngưu tất là thuốc cố hạ, đi xuống phía dưới cơ thể nếu tẩm với nước cam thảo là thuốc cố trung sẽ làm cho ngưu tất không phát huy tác dụng ở hạ tiêu. Hơn nữa, người ta còn có thể làm giao tính qui kinh của vị thuốc. Ví dụ: để giúp cho tâm thận giao nhau thì chế hoàng liên với nước nhục quế hoặc ngược lại nhằm mục đích dẫn dương vào âm, tâm thận giao nhau, gây ngủ. Cần nhớ thêm rằng để tăng thêm “vị” cho các thuốc về khí, về dương như thuốc bổ khí kiện tỳ, thuốc bổ thận dương... thường phải chế biến về vị. Ví dụ: Thuốc bổ thận dương thường tẩm với muối ăn có “vị mặn” để chúng có đủ cả khí lẫn vị cho thận làm tăng tác dụng của chúng đối với thận. Các thuốc bổ khí kiện tỳ lại cần bổ sung thêm vị như chúng thường được trích mật để có thêm vị ngọt. Như vậy, khí và vị thường hỗ trợ nhau trong làm cho vị thuốc thêm sức.
4.2. Cơ sở khoa học của chế biến nhằm tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc
Thứ nhất: Hiệp đồng tác dụng giữa vị thuốc và phụ liệu : Một số phụ liệu bản thân là các vị thuốc có cùng tác dụng với vị thuốc, khi chế biến có thể tăng hiệu lực của thuốc thông qua tác dụng hiệp đồng giữa thuốc và phụ liệu (Theo tương tu và tương sử trong thất tình hoà hợp). Thông thường ở đó có sự giao thoa kinh tác dụng như hoàng liên (tâm) và nhục quế (thận) hoặc tác dụng trên cùng một kinh như bán hạ chế với cam thảo, phèn chua, bồ kết... có thể tăng tác dụng long đờm, giảm ho; chế với gừng thì tăng tác dụng chống nôn... Bạch truật chế sữa tăng tác dụng bổ dưỡng; viễn trí, xương bồ, bá tử nhân tẩm chu sa làm tăng tác dụng dưỡng tâm an thần. Theo y học hiện đại: sở dĩ chúng hiệp đồng tác dụng là do mỗi thuốc đều có chứa thành phần đều cùng tác dụng hoặc cộng hưởng tác dụng hoặc tạo ra một hoạt chất mới có tác dụng tương tự như ở mức độ cao hơn để điều trị một bệnh hay một triệu chứng bệnh.
Thứ hai: Chuyển hoá (thay đổi) tác dụng : Dưới tác dụng của nhiệt độ, độ ẩm, độ pH của dung dịch phụ liệu... có thể tạo ra các phản ứng làm thay đổi thành phần hoá học của vị thuốc, dẫn đến thay đổi về tác dụng mà phần lớn thông qua kinh nghiệm chế biến là theo chiều hướng mong muốn. Đây cũng là phương pháp làm thay đổi tính vị, tác dụng của thuốc. Đặc biệt, yêu cầu của bào chế phải làm tăng tác dụng cho vị thuốc, làm phong phú tính đa dạng của nguồn thuốc. Các yếu tố về nhiệt độ, độ ẩm, độ pH... có thể làm thay đổi thành phần hoá học cũng làm tăng hiệu suất chiết xuất hoặc làm giảm chất phụ cản sự hoà tan của hoạt chất.
Thứ ba: Tăng khả năng giải phóng hoạt chất khỏi vị thuốc : Qua chế biến, nhiều yếu tố làm giảm độ bền cơ học của tế bào vị thuốc như vị thuốc được phân chia đến kích thước nhỏ hơn, làm giảm một số thành phần hoá học gây cản trở sự phân tán hoạt chất như chất nhầy, pectin, tinh bột, tanin, bẻ gẫy liên kết hoá học giữa các chất hữu cơ có phân tử lượng lớn... Vì thế, hoạt chất dễ tan trong dịch nước sắc...
Nguồn: T/c Đông y, số 368 (25/12/2004, tr 29 - 32