Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 12/01/2012 20:41 (GMT+7)

Một số nhận thức về xã hội dân sự

Do vậy, sự ra đời của các tổ chức xã hội độc lập cũng tất yếu như tất yếu tồn tại những sở thích, nhu cầu, lợi ích khác nhau trong xã hội. Lợi ích, nhu cầu, nguyện vọng của cá nhân, cộng đồng xã hội sẽ thể hiện ở tôn chỉ, mục đích và sự phối hợp hoạt động của các tổ chức xã hội. Thông qua các tổ chức này người dân thể hiện, biểu đạt được ý chí, nguyện vọng, lợi ích của mình với nhà nước, chính quyền. Đồng thời cũng thông qua các tổ chức nói trên, chính quyền và các đảng chính trị dễ dàng tiếp xúc với quần chúng nhân dân, hiểu được ý nguyện, lợi ích của dân cũng như phát huy, khơi dậy được mọi nguồn lực phát triển, khả năng sáng tạo của nhân dân tham gia vào đời sống chính trị, vào quá trình hoạch định chính sách, xây dựng nhà nước có hiệu lực, hiệu quả.

Ngày nay, khi nguồn vốn xã hội và vốn con người được coi là hai nguồn vốn quan trọng nhất trong phát triển của mỗi quốc gia, vai trò của các tổ chức xã hội càng được đề cao vì chúng là nơi tích lũy, chia sẻ và truyền bá những tri thức, kỹ năng của các cộng đồng, các nhóm người, là những nhân tố tạo nên những giá trị gia tăng lớn nhất trong nền kinh tế tri thức và tạo ra khả năng cạnh tranh của các quốc gia trên trường quốc tế. Đó chính là biểu iện, là bộ mặt của xã hội dân sự đã được thừa nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Ở nước ta hiện nay chưa có sự thống nhất về nội hàm khái niệm xã hội dân sự. Có một số ý kiến cho rằng xã hội dân sự gồm các mối quan hệ xã hội: “Xã hội dân sự là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, tập hợp các mối quan hệ tự nguyện, tự quản của người dân, liên kết con người với nhau thành các tổ chức, không vì mục tiêu lợi nhuận, độc lập tương đối với Nhà nước và thị trường nhằm thỏa mãn các nhu cầu và lợi ích nhất định của cá nhân hoặc cộng đồng” (1). Ý kiến khác cho rằng: “Xã hội dân sự là tổng thể các quan hệ và các tổ chức, các mạng lưới tổ chức xã hội được hình thành và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải về kinh phí, trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý, phối hợp với nhà nước để kiểm soát và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế, từng bước hoàn thiện và phát huy vai trò của xã hội dân chủ, nhằm duy trì, bảo đảm sự ổn định, cân bằng và phát triển bền vững của nhà nước và của xã hội, hiện thực hóa quyền lợi của mỗi cá nhân và cộng đồng” (2). “Xã hội dân sự là một hệ thống các quan chế và thiết chế xã hội đa dạng, phong phú ở nhiều mức độ có mối liên hệ lẫn nhau không thông qua (không phụ thuộc vào) Nhà nước của cá nhân tự do và có toàn quyền tồn tại và hoạt động trong điều kiện nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền” (3).

Có quan niệm xem xét xã hội dân sự như một giá trị xã hội: “Xã hội dân sự là xã hội mà trong đó mỗi người tự coi mình là một chủ thể tích cực trong các quá trình chính trị, kinh tế và xã hội. Với tư cách là một giá trị, xã hội dân sự là khả năng nội tại của một xã hội cho phép công dân tự giác hình thành những tổ chức của mình nhằm thực hiện những mục đích chung. Với tư cách là một thể chế, xã hội dân sự là một thực thể tồn tại giữa Nhà nước và gia đình, cá nhân; nó được hình thành và bị quy định bởi điều kiện kinh tế, chính trị và truyền thống văn hóa” (4). Xã hội dân sự nói chung là sự tự tổ chức của nhân dân để thực hiện quyền làm chủ của mình, vì lợi ích của chính mình, ngoài phương thức nhà nước và thị trường.

Lại có quan niệm về xã hội dân sự theo cách tiếp cận tổ chức: “Xã hội dân sự bao gồm các tổ chức xã hội nằm ngoài nhà nước, nằm ngoài các hoạt động doanh nghiệp (thị trường), nằm ngoài gia đình, để liên kết người dân với nhau trong những hoạt động vì mục đích chung. Thành phần quan trọng của xã hội dân sự là các hội, hiệp hội trong dân chúng, trong làng xóm, mang tính chất liên kết cộng đồng” (5). Hay “Xã hội dân sự là hệ thống các tổ chức của công dân, các cộng đồng công dân và các quan hệ giữa chúng, nhằm hiện thực hóa các cá nhân và nhân cách, nối các cá nhân với hệ thống xã hội, củng cố và bảo vệ lợi ích cộng đồng. Thể chế xã hội công dân được cấu trúc bao gồm toàn bộ những liên hiệp, hiệp hội, liên đoàn theo lợi ích và những cơ chế phối hợp, vận hành của chúng” (6).

Có người quan niệm xã hội dân sự trên cơ sở phân biệt: “Xã hội dân sự là lĩnh vực của công chúng hay lĩnh vực thứ ba của một quốc gia, bổ sung cho nhà nước và khu vực kinh doanh, bao gồm tất cả các tổ chức, nhóm, hộ, mạng lưới được nhân dân thiết lập nên. Nó mang tính phi chính phủ, tự nguyện và phi lợi nhuận...” (7). Xã hội công dân bao gồm tất cả các hoạt động có tính cách tổ chức, vượt trên phạm vi cá nhân hoặc gia đình nhưng không nằm trong hệ thống chính quyền” (8).

“Xã hội công dân, bao gồm những yếu tố cơ bản: 1/ Là tập hợp những cơ cấu tách bạch khỏi nhà nước, gồm rất nhiều hội, các đoàn thể được hình thành trên cơ sở tự nguyện của công dân; 2/ Là lĩnh vực thể hiện các lợi ích của xã hội nằm ngoài phạm vi tác động trực tiếp của nhà nước; 3/ Là tập hợp tất cả những người có quan hệ nhất định với nhau theo sự tự do thỏa thuận mà không có sự can thiệp của nhà nước “(9). “Ngoài khu vực nhà nước còn có một khu vực thứ ba bao gồm các tổ chức, các nhóm, các hình thức liên minh, liên kết xã hội, không nằm trong cấu trúc thiết chế của nhà nước, cũng không phải thuộc khu vực kinh tế tư nhân chạy theo lợi nhuận. Đây là khu vực mà trong đó những nhóm cá nhân tự nguyện tham gia với những mục đích hướng tới phục vụ cho các lợi ích của nhóm và của xã hội. Đó chính là xã hội dân sự” (10).

Đáng chú ý là, liên quan đến việc sử dụng thuật ngữ “ xã hội dân sự” hay “ xã hội công dân”, hai thuật ngữ này có đồng nghĩa hay không, cũng còn có ý kiến khác nhau. Nhiều ý kiến đồng nhất nội hàm của 2 khái niệm này, tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, trong nghĩa ban đầu của nó, xã hội dân sự đồng nhất với xã hội công dân, nhưng dần ý nghĩa và nội hàm khái niệm xã hội dân sự biến chuyển và tách khỏi xã hội công dân và cho đến nay thì đó là hai khái niệm khác nhau, hai thực tiễn khác nhau, không nên nhầm lẫn (11). Tương đồng với quan niệm này, ý kiến cho rằng “xã hội dân sự” có nội hàm phong phú hơn khái niệm “xã hội công dân”. Do đó việc dùng khái niệm “xã hội dân sự” là phù hợp hơn khái niệm “xã hội công dân” (12). Ý kiến khác phân biệt “xã hội công dân” là khái niệm được dùng để đối lập với khái niệm “xã hội dân sự”, còn xã hội dân sự là đề cập đến khu vực xã hội, là một trong ba trụ cột (bên cạnh nhà nước và kinh tế) cơ cấu nên xã hội hiện đại (13). Nếu xã hội dân sự là xã hội nằm ngoài nhà nước, không cần đến nhà nước thì xã hội công dân là pháp chế hóa xã hội dân sự. Như vậy, xã hội dân sự rộng hơn và cũng căn bản hơn nhiều so với xã hội công dân.

Mặc dù quan niệm về xã hội dân sự còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm, định nghĩa, phạm vi, bản chất đặc trưng và vai trò... song có thể khái quát đặc trưng chung của xã hội dân sự là:

- Là các tổ chức “ngoài” Nhà nước, phi chính phủ, bao gồm các quan hệ và tổ chức không mang dấu hiệu quyền lực công.

- Là tổ chức hoạt động không nhằm mục tiêu lợi nhuận (khác với các doanh nghiệp là các hoản lợi nhuận); nếu có lợi nhuận thì cũng không được chia với mục đích tư lợi.

- Tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải về tài chính, dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao sự đồng thuận, chia sẻ về lợi ích nhằm đạt đến sự cân bằng, hài hòa các lợi ích tư và lợi ích công.

- Đa dạng về cách thức và hình thức tổ chức, phong phú về nhu cầu và lợi ích, mục đích cụ thể.

- Là một lĩnh vực chứa đựng nhiều mâu thuẫn và tranh chấp trong từng quan hệ, từng tổ chức và giữa các quan hệ, các tổ chức, mà sự giải quyết thỏa đáng là nhờ tính tự nguyện và dân chủ của xã hội dân sự cộng với tác động đúng đắn, thích hợp của Nhà nước pháp quyền.

Các chức năng của các tổ chức xã hội dân sự là: Tập hợp các nhu cầu cá nhân, nhóm, tổ chức, cộng đồng để hình thành nên các nhu cầu xã hội, nhu cầu chính sách, tạo môi trường xã hội thuận lợi để hội viên, thành viên hình thành và phát triển tri thức, kỹ năng quản lý xã hội; tham gia xây dựng và giám sát, phản biện xã hội đối với cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng môi trường dân chủ; bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của thành viên, hội viên; tham gia cung ứng các dịch vụ công, góp phần khắc phục những hạn chế của cơ chế kinh tế thị trường, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, từ thiện, nhân đạo, khắc phục những hậu quả của thiên tai, bảo vệ môi trường....; thực hiện đối ngoại nhân dân, tăng cường sự hiểu biết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong việc giải quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu như bảo vệ môi trường sinh thái, chống đói nghèo, giảm nhẹ thiên tai...

Ở nước ta, các tổ chức xã hội như vậy đã hình thành và phát triển rất phong phú, đa dạng, với nhiều loại hình, tính chất và tên gọi rất khác nhau: như tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp; xã hội - nghề nghiệp; tổ chức xã hội, nhân đạo, từ thiện, hữu nghị; các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công không phải do Chính phủ lập ra; các quỹ không thuộc ngân sách nhà nước, không do Nhà nước nắm giữ, hoạt động phi lợi nhuận với mục đích nhân đạo, từ thiện, khuyến khích phát triển văn hóa - xã hội; các tổ chức cộng đồng theo dòng tộc, tín ngưỡng, sở thích, câu lạc bộ, tổ chức tự quản...

Ngoài những đặc tính chung của các tổ chức xã hội đang tồn tại ở nhiều nước trên thế giới, các tổ chức xã hội ở Việt Nam còn có những đặc điểm riêng:

- Các tổ chức xã hội ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền và tích cực phối hợp hoạt động với Nhà nước.

- Phần lớn các tổ chức xã hội ở Việt Nam đều tham gia Mặt trận tổ quốc Việt Nam - một liên minh chính trị - xã hội rộng lớn có hệ thống tổ chức từ trung ương đến cấp cơ sở, hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, thống nhất và phối hợp hành động.

- Một số tổ chức xã hội được Nhà nước hỗ trợ gần như hoàn toàn về kinh phí hoạt động, trụ sở làm việc, biên chế cán bộ chuyên trách.

Những đặc điểm mang tính lịch sử nói trên của các tổ chức xã hội nước ta, một mặt tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội, góp phần tạo nên những thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và là động lực phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhất định, các đặc điểm này làm phát sinh một vấn đề đáng chú ý như: tính độc lập của các tổ chức xã hội chưa cao; tình trạng “nhà nước hóa”, hành chính hóa trong mô hình tổ chức và hoạt động thể hiện khá rõ những chậm được khắc phục.

Nhận thức rõ tính tất yếu khách quan của việc hình thành các tổ chức xã hội ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền, Đảng ta đã đề ra quan điểm chỉ đạo “ ... các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng. Cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội, trong giai đoạn mới cần thành lập những tổ chức quần chúng đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống của nhân dân, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân, tuơng ái” (14). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X tiếp tục xác định “Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận để chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng theo tinh thần xã hội hóa với sự hỗ trợ một phần của Nhà nước, bảo đảm cho các đối tượn bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, tự vươn lên” (15).

Do vậy, ngày càng có nhiều tổ chức xã hội được thành lập, hoạt động trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội với các mô hình và tên gọi rất đa dạng, phong phú. Tính đến tháng 12 - 2010 đã có khoảng 450 hội có phạm vi hoạt động toàn quốc, hơn 4.200 hội có phạm vi hoạt động tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và hàng chục vạn hội, tổ chức cộng đồng tự quả, tổ hòa giải có phạm vi hoạt động tại quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã, thôn, làng, ấp, bản. Các tổ chức xã hội đã có nhiều đóng góp trong việc phát huy dân chủ, xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật và thực hiện giám sát, phản biện xã hội đối với các chu trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; chủ động tham gia cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ cho hoạt độn của Chính phủ trong việc phân phối và nâng cao chất lượng dịch vụ, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo... góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, một số tổ chức xã hội hoạt động còn hình thức, kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích của đoàn viên, hội viên, có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự tài trợ của Nhà nước; có xu hướng “hành chính hóa” về mặt tổ chức và hoạt động, do đó khả năng thu hút, tập hợp hội viên bị hạn chế. Việc tham gia cung ứng dịch vụ công trong một số trường hợp chưa được triển khai đúng với tôn chỉ và mục đích đã đăng ký, thậm chí có trường hợp chạy theo lợi nhuận đơn thuần, hoặc lợi dụng danh nghĩa tổ chức phi lợi nhuận để trốn thuế, gây tổn hại đôi với lợi ích xã hội. Nhận thức về vai trò, chức năng của các tổ chức xã hội đối với phát triển xã hội còn chưa đầy đủ; có biểu hiện xem nhẹ va trò, tác dụng của các tổ chức này; chậm ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động và quản lý hội cho phù hợp tình hình mới.

Để phát huy hơn nữa vai trò các tổ chức xã hội đối với phát triển xã hội ở nước ta hiện nay, cần đổi mới mạnh mẽ mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức xã hội nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hạn chế và tiến tới chấm dứt xu hướng “nhà nước hóa”, “hành chính hóa”. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý nhà nước đối với các tổ chức xã hội theo hướng kết hợp phát huy vai trò tự quản của tổ chức - quản lý nội bộ với quản lý của Nhà nước nhằm một mặt bảo đảm tính chất “phi nhà nước”, mặt khác tăng cường sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước đối với các tổ chức xã hội. Khẩn trương nghiên cứu ban hành Luật về Hội để có cơ sở pháp lý cao về quản lý nhà nước đối với hội và tạo điều kiện thuận lợi cho hội hoạt động. Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động của các tổ chức xã hội, tạo điều kiện để các tổ chức này hoạt động đúng hướng, có hiệu quả. Thể chế hóa quyền và cơ chế tham gia của các tổ chức xã hội trong việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là cơ chế giám sát, phản biện xã hội.

Nghiên cứu xác định rõ và thực hiện đúng những chức năng, nhiệm vụ đích thực của Nhà nước; hoàn thiện thể chế phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, từng bước loại bỏ sự can thiệp hành chính vào những lĩnh vực, những hoạt động, những quan hệ xã hội mà tính chất của chúng không đòi hỏi sự can thiệp ấy, nhằm tạo điều kiện phát huy vai trò, chức năng của các thiết chế xã hội trong việc thỏa mãn nhu cầu phong phú của nười dân.

1/ TS Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Mạnh Minh Phương (đồng chủ biên):Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

2/ GS, TS Dương Xuân Ngọc chủ biên:xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn , Nxb Chính trị- Hành chính, Hà Nội, 2009, tr 66.

3, 12/ GS, TS Võ Khánh Vinh:Một số vấn đề lý luận về xã hội dân sự . Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 - 2008.

4/ GS. TSKH Đào Trí Úc:Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2005, tr 42 - 43.

5/ Vũ Duy Phú, Đặng Ngọc Dinh, Trần Chí Đức, Nguyễn Vi Khải:Xã hội dân sự, Một số vấn đề chọn lọc, Nxb Tri thức, 2007.

6/Đề Cương bài giảng Chính trị học (dùng cho cao học chuyên ngành chính trị học) của Viện Chính trị học thuộc Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,2005.

7/ TS Nguyễn Mạnh Cường:Bài giảng về xã hội dân sự , Trường Đại học Kinh tế quốc dân.

8/ Quý Đỗ:Thế nào là xã hội công dân . Tạp chí Tia sáng, số 9 - 5 - 2006, tr 14.

9/ TS Ngô Huy Đức, Đề tài cấp bộ 2007:Xã hội cong dân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.

10/ TS Lê Bạch Dương:Xã hội dân sự khỏe, nhà nước khỏe. Mạng http://www.phapluattp.vn.

11/ Trần Việt Phương:Xã hội dân sự và Nhà nước pháp quyền , bài nói tại Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ.

13/ PGS, TS Nguyễn Như Phát:Xã hội dân sự - Kinh nghiệm nước ngoài và bài học cho Việt Nam (tham luận Hội thảo quốc tế:Xã hội dân sự: những vấn đề lịch sử, lý luận và kinh nghiệm nước ngoài , Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2008.

14/ ĐCSVN:Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990, tr 12.

15/ ĐCSVN:Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ươn khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr 155.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.