Một số kinh nghiệm thế giới về quản lý môi trường đô thị áp dụng tại Việt Nam
I. Khái quát chung
Sự phát triển của các thành phố là tất yếu, là con đường tiến tới văn minh của xã hội loài người. Các thành phố là trung tâm của sản xuất, văn minh, thông tin và sự đổi mới. Khoảng 70% GDP của các nước trên thế giới là từ các ngành sản xuất, dịch vụ công nghiệp ở trong các vùng đô thị. Thành phố cũng là nơi tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp và cũng là thị trường quan trọng của hàng hoá nông nghiệp.
Tuy nhiên việc đô thị hoá nhanh chóng đã kéo theo nhiều hệ luỵ mà nhiều nước trên thế giới đang phải đối mặt, nhất là trong lĩnh vực quản lý xã hội, quản lý môi trường đô thị. Một ví dụ chúng ta dễ dàng nhận thấy là ở Việt Nam chẳng hạn: Đô thị hóa đã kéo theo một số lượng lớn các hộ gia đình từ nông thông bỗng chốc trở thành đô thị, họ chưa kịp thích nghi, chưa kịp làm quen với "lối sống đô thị". Các quan hệ gia đình, tính chất cộng đồng và cuộc sống gia đình có những biến đổi căn bản, trong đó có cả yếu tố tích cực và tiêu cực. Tình trạng tranh chấp trong người dân và mất trật tự xã hội, làm cho môi trường xã hội xuống cấp cũng như những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường tự nhiên xung quanh.
Kinh nghiệm của thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước phát triển trong lĩnh vực quản lý môi trường sẽ là những bài học qúy báu cho chúng ta trong việc hoạch định chính sách, điều hành quản lý xã hội, quản lý môi trường cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Môi trường đô thị là một vấn đề lớn, là một thể thống nhất, bao gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực liên quan. Đảm bảo môi trường đô thị, cần thiết phải học hỏi kinh nghiệm thế giới để áp dụng trong điều kiện cụ thể của Việt Nam . Vấn đề kinh nghiệm thế giới mà chúng ta đề cập ở đây không chỉ là những vấn đề về kinh nghiệm thực tiễn mà còn là các kinh nghiệm trong cơ sở lý luận để đề ra chiến lược phát triển. Đây chính là tiền đề của phát triển, là cơ sở của hành động thực tiễn trong việc đảm bảo môi trường theo tiêu chí phát triển bền vững. Sau đây là một số kinh nghiệm của thế giới trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đảm bảo đô thị phát triển bền vững mà chúng ta đã và đang áp dụng.
II. Kinh nghiệm quản lý môi trường của thế giới áp dụng tại Việt Nam
2.1. Kinh nghiệm về hoạch định các chính sách về bảo vệ môi trường
Một trong những nước đã có nhiều thành công trong việc hoạch định các chính sách về bảo vệ môi trường, mà chúng ta đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm ở họ. Đó là Cộng hoà liên bang Đức, Chính phủ nước này đã đưa ra các biện pháp chiến lược để quản lý các chất thải nguy hại như: ngăn ngừa ngay từ nguồn thải, giảm thiểu số lượng chất thải nguy hại, xử lý và tái sử dụng chúng. Trong vòng 20 năm trở lại đây, Cộng hoà liên bang Đức đã ban hành nhiều đạo luật về quản lý chất thải. Có khoảng 2000 điều luật, quyết định, quy định về hành chính với nội dung phân loại các chất độc hại trong chất thải khí, rắn, nước. Về thu thập, vận chuyển, xác định biện pháp giải quyết chất thải.
Bên cạnh đó, pháp luật của Cộng hoà liên bang Đức khuyến khích việc đổi mới công nghệ và thiết bị (bằng cách thay thế từng phần hoặc toàn bộ) nhằm hướng tới một công nghệ hoặc ít sinh ra chất thải nguy hại. Nhà nước cộng hoà Liên bang Đức giảm thuế hoặc cho vay tiền với lãi suất thấp trả dần nếu đầu tư vào công nghệ mới hay thiết bị xử lý chất thải nguy hại.
Ý tưởng phát triển Singapore - thành phố xanh, sạch, đẹp, được hình thành từ những nưm 1960, trong đó việc bảo vệ môi trường sinh thái được coi là một nhiệm vụ chiến lược trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Để có một Singapore được mệnh danh là "thành phố sạch nhất thế giới" phải do rất nhiều yếu tố, song quan trọng nhất phải kể đến tính toàn diện của pháp luật về môi trường.
Mô hình này của Singapoređã có sự nghiên cứu kỹ càng để áp dụng trong điều kiện cụ thể của Việt Nam . Gần đây chúng ta cũng đã ban hành và sửa đổi một số Nghị định của Chính phủ theo hướng tăng nặng hơn các hình thức xử phạt. Chẳng hạn Nghị định 81/2006/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được thay thế bằng Nghị định 117/2009/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn khác có liên quan. Đặc biệt gần đây nhất (năm 2009) chúng ta đã sửa đổi 10 điều về tội phạm môi trường trong Bộ Luật hình sự năm 1999, quy định rõ ràng hơn về tội danh cũng như hình thức xử lý. Mặc dù vậy, chúng ta cũng còn cần phải hoàn chỉnh các văn bản pháp luật theo hướng cụ thể hơn để không cần đến nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, để khắc phục tình trạng ban hành không kịp thời hoặc tình trạng các văn bản chồng chéo nhau, khó thực hiện.
Từ những kinh nghiệm đó chúng ta đã đưa ra các hoạch định về chính sách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và kiểm soát phát triển. Sau đây chúng ta có thể nêu ra một số văn bản được ban hành gần đây nhất.
Quyết định số 129/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29 tháng 10 năm 2009 về việc phê duyệt đề án "Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên và môi trường".
Quyết định số 2149/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050.
Quyết định số 1930/QĐ-TTg ngày 20 tháng 11 năm 2009 về Phê duyệt định hướng phát triển thoát nước đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2050.
Quyết định số 1929/QĐ-TTg ngày 20 tháng 11 năm 2009 về Phê duyệt định hướng phát triển cấp nước đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2050.
Ngoài ra, trong vài ba năm trước đây chúng ta đã ban hành rất nhiều loại hình văn bản khác trong các lĩnh vực chuyên ngành khác nhau. Có thể nêu ra đây một số ví dụ:
- Quyết định số 35/QĐ-TTg ngày 03/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam .
- Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách, cơ chế tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch…
Trong thời gian năm năm qua với sự hợp tác trong nhiều chương trình với nước ngoài chúng ta đã soạn thảo xây dựng và hoàn thiện một hệ thống chính sách pháp luật trong lĩnh vực quản lý tài nguyên môi trường: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật Hoá chất, Giới thiệu, nghiên cứu, thí điểm, đề xuất biện pháp ứng dụng đối với một số vấn đề mới đối với Việt Nam như Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đối với các dự án, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã áp dụng nhiều kinh nghiệm củ nước ngoài trong việc tiếp cận tổng hợp trong lập quy hoạch sử dụng đất nói riêng và lập quy hoạch phát triển nói chung, quản lý tổng hợp đới bờ, lưu vực sông… để đưa vào hệ thống chính sách pháp luật.
2.2. Kinh nghiệm về áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
Khác với nhiều nước khác, nền kinh tế của chúng ta vừa mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên chúng ta chưa có hoặc có rất ít kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý môi trường cũng như trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Việc áp dụng các công cụ pháp lý trong quản lý môi trường chúng ta đề cập ở phần trên còn có nhiều hạn chế, chưa hoàn toàn phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay, khi mà chúng ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hội nhập kinh tế thế giới. Nhiều chuyên gia cho rằng các quy định của pháp luật về môi trường (luật, nghị định, tiêu chuẩn, quy chuẩn,… về bảo vệ môi trường) là cần thiết, tuy nhiên nó là cứng nhắc và nhiều khi là rào cản các doanh nghiệp phát triển sản xuất, ứng dụng công nghiệp mới. Mặt khác, để thực thi được vấn đề này cần có một bộ máy quản lý, giám sát cồng kềnh, chi phí lớn. Chính vì những lý do trên đây mà chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước khác để áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường. Thực tế cho thấy chỉ có áp dụng kết hợp các công cụ pháp lý, công cụ kinh tế và sự tham gia của cộng đồng thì công tác quản lý môi trường mới có hiệu quả, đạt được các mục tiêu đã đề ra là phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường.
Các công cụ kinh tế là biện pháp khuyến khích kinh tế, được xây dựng trên nền tảng các quy luật kinh tế thị trường nhằm điều chỉnh các hành vi trong hoạt động sản xuất và đời sống của toàn xã hội. Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng dựa trên hai nguyên tắc cơ bản, đó là: người gây ô nhiễm phải trả tiền, hay còn gọi là nguyên tắc PPP-3P (Polluter Pays Principle-3P) và người được thụ hưởng phải trả tiền, nguyên tắc BPP (BeneUt Pays Principle-BPP). Công cụ kinh tế được áp dụng có thể bao gồm rất nhiều loại hình khác nhau như thuế tài nguyên môi trường, phí, giấy phép xả thải, quỹ môi trường, trợ cấp, miễn giảm thuế, cho vay ưu đãi. Các nước phát triển, đặc biệt là các nước trong Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đã có nhiều thành công trong việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường. Chúng ta có thể nêu ra đây một vài thí dụ như: Điều chỉnh hành vi môi trường một cách tự nhiên bằng thuế, phí và lệ phí; Đạt được hiệu quả chi phí với một mức thải cho phép; Sử dụng các công cụ kinh tế vào mục đích bảo vệ môi trường đối với các doanh nghiệp không chỉ có tác dụng lâu dài, trực tiếp nhằm thay đổi hành vi của họ, mà còn có tác dụng thúc đẩy quá trình nghiên cứu phát triển công nghệ mới có lợi cho môi trường; Gia tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đầu tư trở lại cho môi trường.
![]() |
Một số năm trở lại đây Việt Nam đang từng bước áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường dựa trên kinh nghiệm của các nước đang phát triển trên thế giới và nhất là các nước trong khu vực. Tại Singapore việc đánh giá thu thuế đối với nước thải sản xuất và sinh hoạt đã thực hiện từ lâu, theo đó mức phí mà các cơ sở sản xuất phải trả tuỳ thuộc vào nồng độ các chất có trong nước thải (COD, BOD, kim loại nặng) và mức phí này sẽ tăng luỹ tiến theo nồng độ các chất gây ô nhiễm có trong nước thải. Tại Trung Quốc từ nhiều năm nay đã thiết lập hệ thống xử phạt các hành vi vi phạm các tiêu chuẩn môi trường. Hệ thống này có tới 100 mức phí đánh vào các nguồn gây ô nhiễm đối với nước thải, khí thải, chất thải rắn, tiếng ồn. Mức phí được quy định phụ thuộc vào lượng và nồng độ các chất thải ra môi trường. Việc sử dụng nguồn thu này cũng đã có nhiều thay đổi, mấy năm gần đây Chính phủ Trung Quốc đã sử dụng nguồn thu này trợ cấp lại cho các doanh nghiệp để họ thực hiện các biện pháp kiểm soát và xử lý ô nhiễm (cụ thể khoảng 80% nguồn thu này được đưa vào quỹ môi trường địa phương và cho doanh nghiệp vay ưu đãi để xử lý ô nhiễm, số còn lại 20% dùng cho việc duy trì bộ máy quản lý). Tại Philippines, Malaysia cũng đều có các quy định tương tự, đặc biệt trong việc định giá tài nguyên và các yếu tố môi trường, thiết lập thị trường chất thải. Với những kinh nghiệm từ các nước này, thời gian qua Việt Nam cũng đã ban hành nhiều loại hình phí và lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Đặc biệt, chúng ta đã có hệ thống thu phí môi trường đối với chất thải rắn, nước thải sản xuất và nước thải sinh hoạt (nghị định số 04/2007/NĐ-CP về sửa đổi một số điều của Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải). Theo đó, mức thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn và nước thải phụ thuộc vào mức độ nguy hại và nồng độ các chất ô nhiễm được thải vào môi trường. Mặc dù còn có một số hạn chế trong việc thực hiện các quy định và nghị định nói trên do chưa có bộ máy đồng bộ, một số vấn đề phát sinh cũng như giám sát việc thực thi và cơ chế sử dụng các nguồn thu này. Nhưng đây là những bước đi đầu tiên theo lộ trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường trong lĩnh vựcquản lý môi trường.
2.3. Kinh nghiệm của thế giới trong xã hội hoá quản lý chất thải và sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đặc biệt là đối với những nước như nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, việc xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường là một hướng đi đúng đắn và tất yếu để bảo vệ môi trường.
Chính vì vậy, xã hội hóa hoạt động bảo vệmôi trường là chủ trương, định hướng chiến lược lớn, lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những giải pháp cơ bản để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dự án môi trường chiếm vị trí ưu tiên hàng đầu. Các hoạt động này khá đa dạng cả về loại hình hoạt động (thu gom, xử lý, tái chế chất thải; tư vấn, đào tạo, thông tin về môi trường; nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, công nghệ môi trường;…), cả về hình thức tổ chức hoạt động (tổ, đội, HTX, doanh nghiệp, trung tâm…) và nội dung hoạt động. Những hoạt động dịch vụ môi trường này đang có chiều hướng phát triển và ngày càng đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp bảo vệ môi trường.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá kinh nghiệm xây dựng cơ chế, chính sách liên quan của các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như các kết quả thu thập tổng hợp số liệu, điều tra khảo sát thực tế về mô hình tiên tiến về bảo vệ môi trường ở một số địa phương trong nước, chúng ta đã ban hành các cơ chế chính sách nhằm tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng và đoàn thể vào các hoạt động bảo vệ môi trường và tiến hành áp dụng thử nghiệm trong thực tiễn. Từ kết quả áp dụng thử nghiệm, được đánh giá, đúc rút kinh nghiệm nhằm hoàn thiện các Dự thảo thế chế chính sách bảo vệ môi trường ở nước ta.
Là một nền kinh tế hàng đầu thế giới, Nhật Bản cũng được đánh giá cao trong vấn đề bảo vệ môi trường. Sau khi trở thành một cường quốc công nghệ và đô thị hoá, tại Nhật Bản đã xảy ra những sự kiện nghiêm trọng về môi trường, thậm chí có người coi đây là một cuộc khủng hoảng thực sự về môi trường. Chính phủ Nhật Bản bắt đầu nhận ra trách nhiệm đối với môi trường, xây dựng chính sách phát triển theo hướng một quốc gia thịnh vượng về kinh tế và giàu đẹp về môi trường thiên nhiên.
Nhìn tổng thể, chính sách điều chỉnh môi trường của Nhật Bản đặt trọng tâm vào yếu tố con người, chủ thể của những tác động đối với môi trường tự nhiên. Bên cạnh việc khuyến khích người dân tham gia các phong trào vì môi trường cảnh quan tươi đẹp - tài sản quý giá của quốc gia thì Chính phủ luôn khuyến khích các nhà chuyên môn đưa ra ý kiến, các giải pháp về bảo vệ và gìn giữ môi trường thiên nhiên.
Kinh nghiệm từ các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đã cho thấy nhiều công việc không thể hoàn toàn dựa vào Nhà nước mà cần phải huy động thêm lực lượng của cộng đồng tham gia mới thực hiện được mục tiêu đề ra. Đó là một giải pháp cần thiết. Vài thập kỷ gần đây, chúng ta đã đề ra một số chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm" trong việc phát triển kết cấu hạ tầng, hoặc "dân biết, dân làm, dân kiểm tra", và ban hành "cơ chế huy động dân chủ ở cơ sở" nhằm huy động lực lượng cộng đồng dân cư tích cực tham gia vào các hoạt động công ích, góp phần hạn chế các tệ nạn tham nhũng, quan liêu.
Kinh nghiệm để cộng đồng dân cư tự quản lý môi trường của mình đã được đúc kết và nêu ra thành trong 9 nguyên tắc của xã hội bền vững mà Hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường và phát triển họp tại Rio de Janneiro (Braxin) năm 1992 đề ra (nguyên tắc thứ 7). Nhiều đô thị ở nước ta đã thành lập các tổ chức cộng đồng tự quản môi trường, trong đó giải quyết các vấn đề về rác thải, vệ sinh môi trường, giao thông công cộng, trật tự xây dựng… tuyên truyền vận động người dân bảo vệ môi trường công cộng. Ví dụ tại Hà Nội, đảm bảo môi trường của một số tuyến đường, khu vực công cộng, thực hiện dự án phân loại rác tại nguồn (dự án 3R)… trong khu dân cưu do Hội phụ nữ phường, Đoàn thanh niên, Tổ chức thiếu nhi, học sinh phụ trách.
Một kinh nghiệm hữu ích từ Mỹ, Canadavà từ nhiều nước phát triển khác mà chúng ta đã và đang áp dụng và hiện nay là việc lập quy hoạch phát triển với sự tham gia của cộng đồng. Theo đó việc tham gia của cộng đồng được tiến hành ngay từ khâu khảo sát, thiết kế quy hoạch cho đến xây dựng, cải tạo, duy trì bảo dưỡng đô thị. Chúng ta có thể đưa ra một ví dụ tại thành phố Vancouver: Vào mùa thu năm 1992, chính quyền thành phố Vancouver đã trưng cầu ý kiến nhân dân để tìm phương hướng quy hoạch thành phố. Từ năm 1992 đến năm 1995, trên 20.000 người đã tham gia vào dự án City Plan, một dự án thiết kế đô thị. Quy trình này vẫn được duy trì thực hiện cho đến ngày hôm nay.
Kinh nghiệm tại các nước đang phát triển như tại Philippines , sự tham gia vào quy hoạch của cộng đồng dân cư tại thành phố Tondo chẳng hạn. Vào đầu năm 1970, Tondo được Ngân hàng thế giới chọn để thực hiện dự án gồm 2 chương trình: Nâng cấp cộng đồng, di chuyển dân cư. Cả hai chương trình được soạn thảo dựa vào tiến trình tham gia quy hoạch của cộng đồng được Cục nhà đất quốc gia thực hiện với sự trợ giúp tư vấn quốc tế. Chương trình thế chấp cộng đồng. Tại Ấn Độ các dự án cải thiện khu ổ chuột (SiPs) được coi là một dự án điển hình về sự tham gia của cộng đồng. Sips đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng như là một vấn đề mấu chốt khuyến khích tính tự chủ mà thường thông qua việc lập ra các Uỷ ban cộng đồng dân cư để quản lý tài sản và các chương trình kế hoạch của cộng đồng. Cơ quan hỗ trợ phát triển quốc tế (ODA) hiện đang cung cấp tài chính cho Sips ở 5 thành phố của Ấn Độ: Hyderabad, Vihakhapatnam, Vijayawada, indore và Calcutla.
Việc áp dụng các kinh nghiệm này ở Việt Nam trong nhiều năm qua đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong việc giải quyết các vấn đề về ô nhiễm môi trường. Có thể nêu ra đây một số ví dụ điển hình như: Nhiều năm qua đã có rất nhiều thành phần kinh tế tư nhân tham gia vào việc quản lý chất thải rắn ở các đô thị như thành phố Lạng Sơn, Hải Phòng, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Hiện nay hình thức này được áp dụng đối với mọi quy hoạch đô thị ở nước ta và được cụ thể hoá bằng văn bản pháp luật (Luật Xây dựng 2003, Luật Bảo vệ môi trường 2005 và Luật Quy hoạch đô thị năm 2009).
Qua những kinh nghiệm thế giới và những thực tế được áp dụng ở nước ta chúng ta có thể khẳng định rằng, việc thực hiện xã hội hoá trong công tác bảo vệ môi trường là một chủ trương đúng đắn, là một hướng đi cần thiết nhằm đạt được hiệu quả cao hơn trong hoạt động bảo vệ môi trường. Qua các mô hình thí điểm về xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở một số địa phương, chúng ta thấy rằng công tác xã hội hoá bảo vệ môi trường đã đạt được một số kết quả đáng kể. Tuy nhiên, các hoạt động này vẫn còn ở quy mô nhỏ, chưa đồng bộ và chưa được triển khai áp dụng rộng rãi. Trong khi triển khai vẫn gặp rất nhiều khó khăn và vướng mắc: thiếu cơ chế, chính sách thực hiện, một số người dân vẫn chưa thực sự ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình trong hoạt động bảo vệ môi trường, thiếu kinh phí… Do đó, để thực hiện tốt công tác xã hội hoá bảo vệ môi trường chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện các hoạt động sau:
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá bảo vệ môi trường, chỉnh sửa và bổ sung hoàn chỉnh các văn bản pháp luật về môi trường làm cơ sở cho quá trình triển khai. Đặc biệt nên cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ của người dân trong hoạt động bảo vệ môi trường và phổ biến rộng rãi cho người dân được biết.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục môi trường để nâng cao hiểu biết, kiến thức của mỗi người dân về môi trường. Nên đưa giáo dục môi trường vào ngành giáo dục quốc dân.
- Xây dựng các mô hình chuẩn về xã hội hoá bảo vệ môi trường cho từng địa bàn cụ thể (tại các làng nghề, khu công nghiệp, khu vực đô thị hay nông thôn…) và triển khai áp dụng rộng rãi các địa phương khác.
2.4. Kinh nghiệm xây dựng mô hình đô thị sinh thái, đô thị bền vững
Từ chiến lược phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, nhiều nước trên thế giới đã hình thành các chương trình, kế hoạch xây dựng các khu công nghiệp, các đô thị sinh thái, thể hiện bằng các làng sinh thái trong đô thị cũng nhữ xây dựng các công viên công nghiệp. Đô thị cũng là một hệ sinh thái như các hệ sinh thái khác, nhưng nó có các đặc thù về cấu trúc và chức năng riêng, với sự tổ hợp các thành phần sinh vật và phi sinh vật, sự chuyển đổi và quay vòng vật chất và năng lượng. Những đặc trưng đó còn thể hiện rõ tổ chức không gian mở rộng và sự thay đổi theo thời gian của cách ứng xử của cộng đồng, sự phân bố của giống, loài sinh vật, sự gia tăng dân số và hình thành tổ chức cộng đồng. Việt Nam chúng ta cũng đang từng bước tiếp cận xu hướng phát triển này. Kinh nghiệm từ các nước phát triển xây dựng các khu công nghiệp sinh thái hay khu đô thị sinh thái đã chỉ ra rằng hệ sinh thái đô thị bao gồm những vấn đề rộng lớn liên quan đến con người, bao gồm các khía cạnh dân số, văn hoá, xã hội, tâm lý, kinh tế, chính trị - xã hội. Từ những vấn đề nêu trên chúng ta có thể đưa ra được khái niệm về đô thị sinh thái như sau: Một đô thị sinh thái là một đô thị mà trong quá trình tồn tại và phát triển của nó không làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, không làm suy thoái môi trường, không gây tác động xấu tới sức khoẻ cộng đồng và tạo điều kiện thuận tiện cho mọi người sống và làm việc trong đô thị.
Tại Hội nghị của Tổ chức y tế thế giới (WHO) họp tại Liverpool(Anh) đã đề ra một số nguyên tắc chính để xây dựng thành phố sinh thái như sau:
- Xâm phạm ít nhất đến môi trường tự nhiên.
- Đa dạng hoá nhiều nhất việc sử dụng đất, chức năng đô thị cũng như hoạt động của con người.
- Trong điều kiện có thể, phải giữ cho hệ sinh thái được khép kín và tự cân bằng.
- Giữ cho phát triển dân số đô thị và tiềm năng của môi trường và tài nguyên thiên nhiên được cân bằng tối ưu.
Với những nguyên tắc như vậy, thời gian gần đây nước ta đã ban hành nhiêu tiêu chuẩn, quy phạm được xây dựng theo hướng tăng cường các yếu tố sinh thái như tỷ lệ cây xanh, mặt nước trong đô thị, giảm mật độ xây dựng. Theo đó, nhà ở đô thị được thiết kế và xây dựng với mô hình gắn bó hài hoà với môi trường tự nhiên, tiết kiệm vật liệu, tiết kiệm năng lượng được sản xuất từ năng lượng hóa thạch, sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió tự nhiên, triệt để tận dụng tận dụng giải pháp xây dựng kiến trúc và giải pháp tự nhiên để đảm bảo điều kiện vi khí hậu ở bên trong và bên ngoài công trình. Có nhiều dự án làng sinh thái đang được thực hiện trên thế giới. Mục đích mà các làng sinh thái đạt được là quy hoạch vật chất bền vững như: sử dụng năng lượng thấp, hiệu suất sản xuất cao và sản sinh chất thải thấp và bền vững về xã hội như quy hoạch nâng cao các giá trị xã hội, văn hóa liên quan đến giá trị vật chất. Chúng ta có thể nêu ra đây một số kinh nghiệm phát triển làng sinh thái tại thành phố Kobe của Nhật Bản, thành phố Curibara của Brazil hay khu công nghiệp sinh thái Burnside tại bang Nova Scotia thuộc bờ biển phía đông Canada… Tại Việt Nam chúng ta cũng đang thí điểm xây dựng các làng sinh thái, khu đô thị sinh thái tại Đà Nẵng, Hội An, Huế.
III. Kết luận
Trong vài thập kỷ trở lại đây, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt. GDP hàng năm tăng trưởng được xếp vào loại những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Thu nhập và đời sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội làm chúng ta vui mừng, nhưng chúng ta cũng nhận thức được những thách thức và những khó khăn mà chúng ta phải vượt qua. Đó là những thách thức về phân hóa giàu nghèo, về đạo đức và lối sống. Những vấn đề về công bằng xã hội, môi trường suy thoái, tài nguyên cạn kiệt. Chính vì lẽ đó kinh nghiệm về phát triển đảm bảo môi trường bền vững của các nước trên thế giới là bài học quý giá cho chúng ta hôm nay. Học tập kinh nghiệm của những nước đã trải qua thời kỳ phát triển như chúng ta là điều vô cùng cần thiết, tránh cho chúng ta những sai lầm mà cái giá phải trả hết sức to lớn. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đảm bảo phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong khuôn khổ có hạn của bài báo, chúng tôi chỉ lược ghi một số kinh nghiệm cơ bản mà không thể nào nêu hết các kinh nghiệm trong rất nhiều lĩnh vực khác nữa.
Chỉ thị 29-CT/TW ngày 21 tháng 1 năm 2009 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" đã đánh giá đầy đủ những thành tựu mà chúng ta đã đạt được, đồng thời cũng chỉ ra những yếu kém trong quản lý và bảo vệ môi trường mà trong những năm tới phải khắc phục. Hy vọng những thuận lợi mà chúng ta đang có, những kinh nghiệm quốc tế được nghiên cứu áp dụng sẽ là động lực giúp chúng ta thành công trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Phấn đấu vì một đất nước Việt Nam giàu mạnh, một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.