Một hệ chuẩn mực về KH&CN khác lạ
Một số nhà lãnh đạo, và cả giới nghiên cứu đã tốn nhiều giấy mực để bàn về chính sách “trọng dụng” và “đãi ngộ” các nhà nghiên cứu; thành lập các tổ chức khoa học “có tầm vóc”, với những ưu đãi rất cao về cung cấp các nguồn lực, xem đó là biện pháp để phát triển mạnh mẽ KH&CN của nước ta. Nhiều nhà lãnh đạo các viện và học viện trực thuộc Chính phủ hoặc thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng đã được “cơ cấu” vào những vị trí rất cao trong hệ thống quyền lực của Đảng, Quốc hội và Chính phủ.
Liệt kê những sự kiện đó cho thấy, không thể nói Đảng và Nhà nước không quan tâm đến KH&CN. Nhưng vì sao KH&CN nước ta chưa chiếm một vị trí nào trong nền KH&CN của thế giới?
Tôi đã thực hiện một số cuộc phỏng vấn và trao đổi với các nhà nghiên cứu, từ người có địa vị rất quan trọng trong hệ thống quyền lực khoa học đến những nhân viên bình thường nhất trong giới nghiên cứu, và nhận ra, dù xét theo bất kỳ quan niệm nào về vốn xã hội, chúng ta đều khó có cái nhìn thật sự khả quan đối với cái “vốn xã hội” cho KH&CN ở nước ta trên vài khía cạnh của vốn xã hội mà tôi cảm thấy đáng quan tâm nhất. Đó là “mạng lưới bền vững” (theo Bourdieu), “các chuẩn mực” (theo Fukuyama) và “sự hợp tác” (theo Putnam).
Xét về chuẩn mực của KH&CN, Việt Nam có một hệ chuẩn mực về KH&CN khác lạ so với thế giới. Chúng ta có thể điểm vài chuẩn mực:
- Các viện nghiên cứu được phân chia đẳng cấp theo thang bậc hành chính: viện ngang cấp Bộ, viện ngang cấp cục/ vụ, từ đây có các viện trưởng làm Bộ trưởng, hàm vụ trưởng và các loại hàm khác. Các nhà lãnh đạo khoa học này ngồi phán xét khoa học từ thang bậc hành chính của họ.
- Giá trị khoa học của đề tài được đánh giá… cũng theo “đẳng cấp” của đề tài: Đề tài “cấp” nhà nước được đánh giá cao nhất, rồi đến đề tài “cấp” bộ và cuối cùng là đề tài “cấp” cơ sở. Không có thứ hạng nào cho các đề tài “cấp” cá nhân, kiểu như công trình Tư bản luậncủa Marx, hay Lý thuyết tương đốicủa Einstein.
- Các “giá trị” bị hành chính hóa này của khoa học lại được xem là tiêu chuẩn để cho điểm xét “phong” giáo sư, một thứ “hàm” để vinh danh, thay vì giáo sư là một chức vụ được bổ nhiệm để lãnh đạo khoa học.
- Rồi đến các danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”, “Nhà giáo nhân dân” được gắn các tiêu chuẩn “phải là chiến sỹ thi đua 5 năm liên tục, trong đó có 2 năm là chiến sỹ thi đua cấp Bộ”. Còn chiến sỹ thi đua là gì, thì giới nghiên cứu đều hiểu rất rõ: nó có quá ít mối liên hệ với những nỗ lực chuyên môn của người nghiên cứu.
Các chuẩn mực giá trị ảo này đã đẩy giới nghiên cứu chạy theo những thứ không phải là khoa học. “Mạng lưới bền vững” bị phá vỡ vì sự can thiệp của những giá trị ảo này.
Chúng ta được nghe nhiều ý kiến phê phán những người được trao quyền lãnh đạo các viện trực thuộc Chính phủ, cho rằng các viện mà họ thành lập đã không làm được nhiệm vụ đẩy KH&CN Việt Nam lên đỉnh cao như mong muốn. Tuy nhiên, nghĩ công bằng hơn, chúng ta cần nhìn vào cả vốn xã hội đã và đang nuôi dưỡng sự tồn tại và phát triển của các viện này. Chưa xét vốn xã hội, chỉ xét riêng về cái vốn tài chính mà một viện mới được thành lập: Viện này được nhận 600 tỉ VNĐ, tức 30 triệu USD trong 10 năm, tức 3 triệu USD mỗi năm, thì cũng đã quá khiêm nhường, con số đó mới chỉ bằng 1/10 kinh phí của một Khoa Hóa của Đại học Lund (Thụy Điển), cộng với cái vốn xã hội quá hạn hẹp, chắc không bằng 1/1000 của Đại học Lund, thì chúng ta có thể tạm đưa ra một dự báo rằng số phận của Viện này chắc sẽ không lạc quan hơn các viện trực thuộc Chính phủ được thành lập từ đầu thập niên 1960 – 1970 đến nay.
So với các tổ chức KH&CN bình thường trong xã hội, các viện và học viện trực thuộc BCHTƯ và Chính phủ có những vị trí rất cao trong hệ thống quyền lực, đã nhận được những đặc quyền rất cao về điều kiện vật chất và tài chính. Nhưng vì sao họ vẫn chưa đóng được vai trò đẩy nền KH&CN Việt Nam lên tương xứng với mong đợi của cộng đồng KH&CN. Tôi cho rằng, các viện và học viện này thiếu một thứ rất quan trọng: Thiết chế tự trị trong khoa học. Họ, cùng với cộng đồng KH&CN Việt Nam vẫn đi theo đường mòn “Xin – Cho” các chương trình/ đề tài “cấp” càng cao càng tốt, mà đỉnh cao nhất là “cấp” Nhà nước.
Thiết chế của một “Nhà nước độc tôn làm khoa học”, với các hình thức đa dạng “Nhà nước mở thầu dự án”, “Nhà nước giao nhiệm vụ”, “Nhà nước nghiệm thu công trình”… một số đồng nghiệp còn mong muốn được “Nhà nước mua sản phẩm”…. Thật ra, làm gì có “Ông Nhà nước nào” cần thiết “sở hữu” cái sản phẩm khoa học của chúng ta. Cái “Ông Nhà nước ấy” là rất trừu tượng. chúng ta, các thành viên trong xã hội, tự mình hãy ý thức vị trí của mình trước khoa học, và hãy cho Nhà nước giữ vai trò người nhạc trưởng, người supervisor, với sứ mệnh quản lý vĩ mô cái hoạt động KH&CN của mọi thành viên trong xã hội.
Còn xem “Ông Nhà nước” là một ông chủ trừu tượng, để “Ông Nhà nước” trực tiếp nhúng tay vào mọi hoạt động KH&CN, tự biến mình thành những “thần dân” được “trọng dụng” và được “đãi ngộ”, chính là đang làm suy yếu cái vốn xã hội cho sự phát triển KH&CN Việt Nam.








