MẤY NGUYÊN TẮC KHOA HỌC VỀ CON NGƯỜI (tiếp)
Nhận xét về khoa học thiên nhiên
Điều nhận xét thứ nhất là : khi đo lường người ta chỉ xét đến trọng lượng, hình thể trong không gian và thời gian, cho nên các sự vật rất khác nhau đều được nhìn theo một quan điểm như nhau. Ví dụ khi học về tốc độ của một vật từ trên cao rơi xuống, thì không cần phải phân biệt vật ấây là một hòn đá, một quả tạ, một quả bom, hay là một con vật sống động.
Điều nhận xét thứ hai là khi nhìn tất cả mọi vật như là đồ vật hay là sự vật (objet), hạn chế những cảm giác chủ quan, thì, như đã nói trên đây, người ta dễ đi đến chỗ đồng ý với nhau, cho nên coi như thế là cái nhìn khách quan (objectivité). Do đó, vì lý do ngôn ngữ, người Aâu châu thường có khuynh hướng cho rằng khi nghiên cứu về con vật hay con người, thì chỉ cần đo lường dài vắn, nặng nhẹ, mau chậm, như đồ vật (objet), mà không xét gì đến cảm giác và tư tưởng, thì mới là khách quan (objectif). Vì thế khi học về con người thì có một số nhà tâm lý học thuộc nhóm « duy cử động » (behaviourism) chủ trương là chỉ đo lường bên ngoài một cách « khách quan », chứ không được đoán xét gì về nội tâm « chủ quan », vả lại làm gì có nội tâm !
Thực ra « chủ quan » là thái độ « duy tâm » hay « duy thức » của ta, khi ta cho rằng vạn vật bên ngoài chỉ là do cái « tâm » của ta tạo ra[12]chứ không có thật như thế, hay là khi ta gán cho sự vật bên ngoài những tình cảm và dự định của ta, như khi một thi-gia, mà tôi không nhớ tên, viết : « Lá sen tan tác trong đầm, Nặng mang giọt ngọc âm thầm khóc hoa ». Nhưng nếu đối vật mà ta nghiên cứu lại không phải là một đồ vật, một sự vật, mà là một nhân vật, có cảm giác, có tư tưởng, biết đối thoại với ta, và đôi khi còn biết ngấm ngầm chống đối và hại ta, thì chẳng lẽ cứ đo lường thể chất bên ngoài như một đồ vật mới là khách quan ? Nói cho cùng thì nếu trong đời sống thường nhật ta đối thoại với người khác, coi họ là có ý kiến, có tư tưởng, có dự định, có ẩn ý nhiều khi khó mà đoán cho ra, mà khi nghiên cứu ta lại cứ nhất định coi họ như chỉ là đồ vật, thì chính cái thái độ ấy của ta là chủ quan, nếu đó không phải là vì ta muốn tránh một vấn đề khó giải quyết.
Trước khi bàn tới khoa học về con người, thiết tưởng cần phải phân biệt ra hai hạng khoa học về thiên nhiên, như Jean Piaget đã làm, nghĩa là phân biệt những vật hữu-cơ-thể ra ngoài những vật vô-cơ-thể. Những vật vô cơ thể thì thuộïc về phạm vi vật lý học, gồm từ thiên văn học (về những vật rất lớn) cho đến hóa học và nguyên tử học (về những vật rất nhỏ). Còn những vật hữu cơ thể thì thuộc về sinh vật học. Vẫn biết là có một số người cho rằng sinh vật học chỉ là một loại vật lý học và hóa học mà thôi, vì lẽ có thể dùng các khoa học đó để giải thích bộ xương khớp xương, bộ máy tiêu hóa, hô hấp, tuần hoàn, bài tiết, v.v. Nhưng khi giải thích thái độ, cử chỉ, hoạt động của con vật đi tìm mồi, chạy trốn khi bị nguy, giao cấu để sinh sôi nảy nở, thì không dễ gì. Chẳng lẽ loài vật tìm đến gần nhau là theo luật « vạn vật tương hấp » (attraction universelle), tùy theo trọng lượng nhiều ít và tùy theo quãng cách xa hay gần ? Ví dụ chẳng lẽ người thiếu nữ càng nặng đồng cân và càng xít lại gần, thì càng có « sức hấp dẫn » ?
Vì thế khi bàn về nếp sống của các sinh vật – con người là một sinh vật – nhấät là về loài vật, thì nhà sinh vật học người Đức là Jakob von Uexkuell (1864-1944) [13][13] chủ trương rằng muốn hiểu được nếp sống và môi trường sinh hoạt của loài vật, thì không thể coi chúng, theo như quan niệm của triết gia René Descartes (1596-1650), như là những cái máy vận chuyển theo như các định luật nhân quả của vật lý học và hóa học, nhưng phải giải thích bằng một yếu tố mới, đó là « ý nghĩa ». Nói thế khác : loài vật không sống động trong môi trường sinh hoạt của chúng tùy theo các đặc tính vật lý học và hóa học của sự vật chung quanh, nhưng theo như ý nghĩa của các sự vật ấy đối với các bộ máy sinh lý của chúng. Như thế mỗi sự vật bên ngoài đều mang theo một ý nghĩa, mà ý nghĩa thì tùy theo liên quan của nó với cơ thể và nếp sống của con vật. Khi giác quan cho biết được hình sắc sự vật như thế nọ thế kia, thì con vật nhận ra nhiều ý nghĩa : thứ này có nghĩa là « thức ăn thức uống », thứ kia có nghĩa là « kẻ thù nguy hiểm », thứ khác có nghĩa là « bạn đường để sinh con đẻ cái », thứ khác nữa thì có nghĩa là « môi trường thuậïn tiện để sinh hoạt », thế rồi nó theo như ý nghĩa đó mà vận dụng cơ thể cho thích hợp, để đạt tới mục đích, như vồ mồi, chạy trốn hay chống cự, giao cấu, v.v. Những ý nghĩa đó như gắn liền mãi với bản năng sinh tồn của mỗi giống vật.
Thoạt nhìn vào thế giới, ta có thể nghĩ rằng loài người và loài vật đều sống trong cùng một thế giới như nhau, nhưng thực ra vì cơ thể và nếp sống khác nhau, vì giác quan không nhiều như nhau và không có tầm cảm giác như nhau, cho nên không thấy được một thế giới như nhau, và các sự vật cũng không có ý nghĩa như nhau. Cho nên mỗi giống vật thì lại có một thế giới ý nghĩa khác nhau (Bản Đức văn, trang 105-119 ; Bản dịch Pháp văn, trang 85-92). Một ví dụ : nhà côn trùng học Henri Fabre (1823-1915) có nhận xét một điều kỳ lạvề một loại côn trùng : sau khi giao cấu thì con cái xé xác con đực ra mà ăn ngon lành, mà con đực cũng không chống cự (Đức, trang 134 ; Pháp, trang 123) ; thế nghĩa là lúc trước thì nó nhìn con đực như là « bạn đường để sinh con đẻ cái », lúc sau thì nó nhìn con đực như là « thức ăn », và vận dụng cơ thể đáp ứng với mỗi trường hợp, tuy rằng các đặc tính về mặt vật lý học và hóa học của con đực kể là vẫn thế.
4. KHOA HỌC VỀ CON NGƯỜI – KHOA HỌC THUYEN THICH
Đây là phần chính trong bài này, vì thế cần phải bàn rộng ra theo hai phương hướng : trong phạm vi đời sống thường nhật thì ta tìm hiểu cho ra, còn trên bình diện khoa học thì ta tìm biết cho rõ.
4.1- Tìm hiểu cho ra
Con người là một động vật, cho nên cũng nhận ra được trong môi trường sinh hoạt một thế giới ý nghĩa tự nhiên gắn liền với nếp sống sinh lý của mình. Nghĩa là tự nhiên biết nhận ra thức ăn mà tìm, nhận ra nguy hiểm mà tránh, nhận ra thù dịch mà chống cự, v.v. Đó là về ý nghĩa tự nhiên.
Nhưng thêm vào đó, chính vì con người tạo ra văn hóa, tạo ra ý nghĩa, cho nên đã gài thêm vào trong thế giới tự nhiên không biết bao nhiêu là dự định, là ý nghĩa, lại thay hình đổi dạng cho sự vật để nó thực hiện những tương quan của mình đối với thiên nhiên, đối với người đồng loại và nhằm cả tới thế giới bên kia nữa. Thế giới của con người thật là mênh mông, vì nó bao trùm cả thể chất bên ngoài lẫn ý nghĩa mà mình đặt vào bên trong sự vật. Vì thế không thể hiểu được con người, nếu chỉ biết đo lường và giải thích thể chất bên ngoài theo luật nhân quả, nếu không tìm ra ý nghĩa và mục đích của hoạt động.
Ý nghĩa và dự định của con người được thực hiện một cách rõ rệt nhất là trong thế giới các dụng cụ, từ dụng cụ đơn sơ như cái gậy, cho đến những dụng cụ rất tinh xảo như xe ô tô, máy bay, máy điện toán. Dụng cụ là vật chất, nhưng được đưa về phía con người, về phía chủ thể, vì nó thực hiện dự định của ta. Ta tạo ra dụng cụ là có ý để làm cái này hay cái kia. Vì thế ta thương lấy công dụng của nó mà đặt tên cho nó, ví dụ như : cái máy đánh chữ, cái kéo cắt tóc, v.v. Các dụng cụ là như đồ phụ tùng nối dài thân thể của ta, để cho ta nhìn xa thấy rộng, vàđể chotầm hoạt động của ta càng ngày càng lớn và càng hữu hiệu. Karl Marx gọi thế giới dụng cụ là thân thể vô cơ thể của con người. Nhưng chưa hết. Các cử chỉ của ta, như cúi đầu, vênh mặt, lườm nguýt, cũng được xã hội định hình để nói lên thái độ kính trọng, khinh bỉ, yêu thương, chê ghét v.v.của ta. Nhưng các hình thức ấy tùy thuộc rất nhiều vào môi trường văn hóa và lịch sử. Sau cùng ta có thể thêm vào đó tất cả các định chế điều hành đời sống xã hội. Tất cả những cái đó thì triết gia Hegel gọi là tinh thần dưới hình thức khách quan (objektiver Geist). Người ta nhìn thấy cái chất thể bên ngoài, đồng thời cũng nhận ra cái ý nghĩa, cái tinh thần bên trong.
Có thể nói : con người ta không phản ứng theo như sự kiện vật lý học, nhưng theo như ý nghĩa mình nhận ra. Vì thế muốn hiểu con người, phải biết cách tìm ra ý nghĩa bên trong, và đó là phép thuyên thích[14] . Khoa học về con người là khoa học thuyên thích.
Có vấn đề như thế là vì ý nghĩa không gắn liền hẳn với cử chỉ hay lời nói, như mặt phải và mặt trái của một tấm vải. Ví dụ : một nắm tay giơ lên có thể là cử chỉ đe dọa, nhưng cũng có thể là lối chào thân mật của người vô sản. Đã thế, người ta lại còn có thể lừa đối nhau : người ta có thể cúi rạp trước mặt người cao cấp để kính trọng, nhưng cũng có thể là giả vờ như thế. Thực vậy, con người không phải là đồ vật, nó thế nào thì cứ thế ấy ; con người là chủ thể, có nội tâm và làm chủ nếp sống. Hơn nữa, người ta có thể hiểu sai, hiểu lầm, lại cũng có thể cố tình nói dối người khác [15] . Cho nên dĩ nhiên là tìm hiểu con người thì khó hơn là tìm hiểu sự vật. Có lẽ vì thế mà một số nhà khoa học cho rằng cứ coi con người như là sự vật (objet), vận chuyển theo như những luật nhân quả tất định, chứ không coi là chủ thể có nội tâm và tự do, thì không có vấn đề rắc rối lôi thôi. Nhưng nếu không coi con người là chủ thể, mà coi là sự vật, thì sao có thể nói là biết một cách khách quan (cũng gọi làobjectif !) được ?
Nói thế không có nghĩa là ta không bao giờ hiểu được người khác. Vẫn biết là ta có thể hiểu lầm, nhưng không phải hiểu lầm tất cả, vì nếu vậy thì làm sao người ta có thể chung sống với nhau được ?
Có một điều nên chú ý ngay, là thường thường ta hiểu khá đúng tư tưởng người khác theo phương pháp suy bụng ta ra bụng người. Nghĩa là ta xem người khác ăn nói hay có cử chỉ như thế nào, rồi ta tự đặt mình vào vị trí của họ : nếu ta ăn nói hay có cử chỉ như thế vì ta có ý định hay mục địch nào, thì ta hiểu rằng họ cũng có ý định hay mục địch như thế. Nếu ta đối thoại thành công, thì đó là dấu chỉ ta đã hiểu ra được ý kiến người khác. Cho nên muốn hiểu người khác, ta không thể đứng hẳn ra ngoài như khách bàng quan. Nếu ta chưa bao giờ có những cảm nghiệm, những tư tưởng như người khác, thì rất khó mà hiểu được. Nếu ta chủ trương rằng chỉ cần quan sát cử chỉ khách quan của người khác, chứ đừng xét đến ý kiến chủ quan của họ, thì ta lại càng chủ quan hơn nữa, vì ta gán cho người khác những ý kiến của ta về cử chỉ của họ vậy.
Phép thuyên thích là phương pháp tìm hiểu cho đúng ý. Phạm vi quan trọng nhất cần áp dụng phép thuyên thích là phạm vi lời nói và chữ viết. Xét chung thì ý nghĩa của lời nói tùy thuộc vào ngôn từ và vào cách đặt câu, nhưng ý nghĩa của ngôn từ cũng hay thay đổi tùy địa phương và tùy thời đại. Đã thế lại còn tùy vào ý định hay là ẩn ý của người nói, và vào lối hiểu của người nghe. Cùng đưa ra một câu, người ta có thể nói thật, nhưng cũng có thể nói dối, nói đùa, nói phét, nói chơi, rồi người nghe lại cũng tùy hoàn cảnh mà hiểu đúng hay hiểu sai, có khi vì đang có mặc cảm cho nên lại hiểu rằng người ta nói kháy mình, v.v. Người Việt ta ít ra cũng quen phân biệt nghĩa đen với nghĩa bóng, và khi nghe kể truyện ngụ ngôn, thì có lẽ không ai tò mò hỏi loài vật sao lại biết nói như người.
Ở Âu châu, phép thuyên thích được thành hình trong khi người theo đạo Thiên Chúa tìm hiểu ý nghĩa của Thánh-kinh. Cần phải nói ngay là họ không coi Thánh-kinh như là những câu thần chú được ban hành, cứ việc đọc lên cho đúng là tự nhiên có hiệu quả, được phúc và tránh được tai ương. Họ biết là Thánh-kinh được viết ra trong một ngôn ngữ, trong một thời đại, để nói lên niềm tin đã được phát triển qua những hoàn cảnh lịch sử như thế nào. Vì ngôn từ có thể thay đổi nội dung qua các thời đại, cho nên muốn hiểu cho đúng ý, cần phải biết câu văn viết vào thời nào, ai viết, và viết cho ai, với mục đích nào [16] . Lại ngay từ buổi đầu người ta đã biết rằng có những đoạn văn không thể hiểu theo nghĩa đen được, vì nó vô lý sự, và phải hiểu theo nghĩa bóng, và có khi còn phải tìm cho ra ý nghĩa sâu xa nữa.
Một điều rất quan trọng là từ đây, khi tìm hiểu một đoạn văn, trong Thánh kinh hay ở đâu cũng thế, người ta phải phân biệt các thể văn, như : văn tả chân, văn kể truyện, văn chép sử, thơ văn tán tụng, văn nghị luận, văn pháp luật, văn châm ngôn dạy khôn ngoan, văn truyện ngụ ngôn, văn thơ tình, văn khuyên nhủ, văn hịch tướng sĩ, văn xách động quần chúng, v.v. Mỗi thể văn có lý sự riêng, có mục đích riêng, có thể thức trình bày riêng. Nếu không phân biệt những điều như thế, ta sẽ vô tình hay hữu ý hiểu sai, và có thể vu oan cho người khác, gán cho họ những điều không có thực.
Lý thuyết thuyên thích được thành hình một cách có qui củ trước đây chừøng hai thế kỷ, nhất là từ Friedrich Schleiermacher (1768-1834), nhà thần học và triết gia người Đức [17] .
4.2-Tìm biết cho rõ
Nếu trong đời sống thường nhật, muốn chung sống được với người đồng loại, ta đã phải hiểu cho ra ý định, dự định – dĩ nhiên là chủ quan – của người khác, thì không có lý gì, khi khoa học muốn biết cho rõ, lại có thể coi con người như chỉ là đồ vật có thể đo lường được, chứ không phải là chủ thể có ý định, có dự định và hoạt động tự do theo lý do (motivations) và theomục đích (buts)mình lựa chọn.
Nhưng biết thể chất bên ngoài thì dễ, mà biết dự định, lý do và mục đích trong nội tâm của người trong cuộc thì khó, vì như vừa nói trước đây, ý nghĩa ở mặt trong và cử chỉ ở mặt ngoài không gắùn liền với nhau như hai mặt phải trái của tấm vải. Liên quan giữa hai mặt, nếu không hẳn là vô thường, thì cũng hay có tính cách thất thường.Mà đã thất thường, thì sao có thể đi tới khoa học được ? Vì thế, trong thiên nhiên, cũng như trong nếp sống của con người, tuy ta thấy được nhiều yếu tố thất thường, nhưng vẫn nhận ra rằng thế giới có thứ tự [18], nghĩa là có những yếu tố hữu thường làm cho người ta có thể tính toán dự định để cùng sinh tồn với nhau. Khoa học về con người chỉ có thể có, nếu người ta nhận định như thế và nhất định tìm biết cho rõ cái thứ tự, cái trật tự lý tưởng của thế giới của con người.
Vấn đề ở đây là làm sao đặt ra được liên quan giữa những yếu tố đo lường được ở bên ngoài với những yếu tố thuộc phạm vi nội tâm. Những yếu tố này thuộc nhiều loại, cho nên có thể phân biệt ra làm nhiều loại khoa học khác nhau về con người, ví dụ như tâm lý học, xã hội học, sử học, kinh tế học, ngôn ngữ học, và cả tôn giáo học nữa. Mỗi loại khoa học như thế đều có phạm vi riêng, nhằm một ý hướng (intentionnalité) riêng, tuy có thể có liên quan với nhau, nhưng không thể giảm trừ một phạm vi nào đó vào một phạm vi khác. Ví dụ : Feuerbach và Freud (ông tổ của khoa phân-tâm) cho rằng tôn giáo chẳng qua chỉ là một ý thức sai lầm về thực tại, cho nên chỉ là một vấn đề tâm lý học mà thôi. Có người khác cho rằng tôn giáo là ước vọng muốn giải thích vũ trụ, hay là vì sợ chết, sợ bơ vơ trong cõi trần ai này, như thế cũng lại là một vấn đề tâm lý học nữa. Marx cho rằng tôn giáo là ý thức phản ảnh của sự vong-thân trong kinh tế, cho nên chỉ là một vấn đề kinh tế học. Có người cho rằng các lễ hội tôn giáo chỉ là để xiết chặt tình liên đới trong cộng đồng, để cùng nhau giải lao, cho nên chỉ là một vấn đề xã hội học. Cũng dễ hiểu : theo phương pháp suy bụng ta ra bụng người, nếu ta không có cảm nghiệm tôn giáo như người khác, thì tất nhiên ta rất dễ hiểu lạc đi như thế [19] . Dù sao, nếu từ đầu ta đã cho rằng tôn giáo chỉ là ảo tưởng sai lầm, chỉ là ác ý hại nhân, mà không có gì là thành tâm thiện chí, thì làm gì có tôn giáo mà nghiên cứu ?
Ở đây ta phân biệt thế thôi, chứ không đi vào chi tiết rất phiền tạp của từng khoa. Ta chỉ muốn nêu lên một vài nguyên tắc chung chung thôi.
Nguyên tắc thứ nhất : Các sự kiện về con người có thể chất bên ngoài, có thể đo lường được như trong khoa học về thiên nhiên, thì có thể dùng nguyên lý nhân quả, nguyên lý hữu luật, nguyên lý tất định để giải thích. Nhưng con người là linh ư vạn vật, là chủ thể có tự do, biết đặt ra mục đích và hoạch định ra các phương tiện để đạt đích. Đó là điều không thể bỏ qua.
Nguyên tắc thứ hai : Chính vì có tự do hành động như thế, cho nên mặt trong và mặt ngoài của hành động không hẳn đi đôi với nhau một cách tất nhiên [20] . Muốn có khoa học, cần phải làm sao bỏ bớt được cái tính cách thất thường trong liên quan giữa mặt trong và mặt ngoài, giữa lý do và mục đích bên trong và hành động bên ngoài. Vì thế, thay vì lấy con người cụ thể thất thường làm đối vật, thì nhà khoa học xây dựng nên con người lý tưởng hữu thường làm đối vật nghiên cứu.
Điểm này cần được giải thích. Một đàng thì con người ta ai nấy đều khác nhau, có lúc nhỏ có lúc lớn, lĩnh hội dần dần được một nền giáo dục, có những cảm nghiệm và kinh nghiệm khác nhau tùy theo hoàn cảnh,tùy tuổi tác, rồi hoạt động theo như lý tưởng hay dục vọng khác nhau. Một hành động (action) có thể là do nhiều nguyên nhân (causes) ngoại lai thúc đẩy, do nhiều lý do (motifs) bên trong làm động lực, và có thể đưa tới nhiều mục đích(buts). Ngược lại, một lý do, một mục đích lại có thể được thực hiện trong nhiều hành động khác nhau. Lẽ thường là như thế, và trong đời sống ta tùy cơ ứng biến được.
Nhưng trong khoa học, ta tìm biết hoạt động của người ta một cách tổng quát, để hiểu biết cho rõ, đưa ra những định luật, để có thể trù tính kế hoạch, tránh được những điều bất ngờ. Vì thế nhà khoa học quan niệm ra một thứhành động lý tưởng: cứ lý mà xét – nghĩa là không xét đến cái tự do hay là tự tiện thay đổi – thì mỗi hành độngchỉ nhằm tới một mục đích, và chỉ do một lý do điều động. Như thế tức là đã coi là con người có nội tâm, hoạt động có lý do và mục đích, chứ không phải chỉ là một đồ vật do nguyên nhân ngoại lai thúc đẩy. Nhưng đó là hiểuchung chungvậy, hiểu theo lẽ thường có tính cách thống kê, chứ chưa chắc đã có thể áp dụng vào từng trường hợp cá biệt. Nói thế khác, ở đây con người quả thật là có nội tâm, nhưng mới chỉ là con người còn vô danh(anonyme) chứ chưa thật có tự do, có nhân cách (personnalité)
Triết gia Alfred Schuetz (1899-1959 ) quan niệm con người lý tưởng (personal ideal type) của nhà khoa học như là một cấâu trúc thuần lý, như là một con nộm vận chuyển một cách hợp lý, mà không bị yếu tố chủ quan nào xáo trộn. Vì là lý tưởng, chứ không phải là thực trạng trong đời sống thường nhật, cho nên con nộm ấy là bất di bất dịch, nó cứ như thế mãi, không có sinh ra, không lớn lên, cũng không chết ; nó không có hi vọng gì, không có sợ sệt gì, không quên gì cả, không sai lầm, không có tự do ; nó chỉ vận chuyển theo như những lý do, những hoàn cảnh, những mục đích và phương tiện mà nhà khoa học đã đặt vào trong nó [21] . Nhìn vào thế giới con người, ta thấy như có sẵn một số vai trò (rôles), mỗi vai trò gồm một hành động do một lý do điều động và nhằm tới một mục đích. Có những vai trò cho từng phạm vi như : tâm lý học, xã hội học, chính trị học, kinh tế học, tôn giáo học, v.v. Làm như thế khoa học về con người có thể giải thích một cách hợp lý nếp sống của con người theo một tỷ số thống kê khá cao. Nhưng chỉ giải thích được, khi mà ai nấy đều hành động theo đúng như con người lý tưởng mà nhà khoa học đặt ra.
Có những chính khách muốn dùng những điều sở đắc của khoa học về con người để tổ chức một cuộc tham khảo dân ý, hay một cuộc chiến tranh cho hợp lý, có tính cách khoa học. Nhưng kếât quả nhiều khi cho ta thấây rằng cá nhân còn hành động theo nhiều lý do mà mình không ngờ đến.
Cũng nên thêm rằng khó mà nói được rằng kết quả của hành động chứng tỏ là ta đã nghĩ đúng. Vì, như đã nói trước đây, người ta phản ứng, không phải là theo như sự kiện khách quan, nhưng là theo như điều mình nghĩ về sự việc trước mắt, nghĩ sai hay đúng cũng vậy. Do đó khi người ta muốn cho quần chúng theo mình, thì thường tung ra kế hoạch chiêu hàng, kế hoạch tuyên truyền, bất chấp là mình nói đúng một phần, nói sai hai phần, và dìm đi một phần khác.
Ngoài ra lập trưởng của người quan sát lại còn có thể làm thay đổi cả đối vật mình quan sát. Ví dụ : khi quan sát cử chỉ của anh Tý, mà tôi đã sẵn có ý nghi kỵ anh ta là phường phản trắc, thì dĩ nhiên là tôi sẽ giải thích cử chỉ của anh ấy theo một chiều : nếu thấy anh ấy làm một điều mập mờ không rõ, thì tôi cho rằng nghi kỵ anh ấy là phải, nếu thấy anh ấy có cử chỉ đầy thiện cảm, thì tôi cho rằng anh ấy đang tìm cách che đậy cái ác ý của mình ; nếu tôi lại ra mặt nghi kỵ, thì cho dù anh ấy có cố gắng mấy để tỏ thiện chí, thì tôi cũng không đổi ý kiến, và rồi kết cục thì anh ấy thành ra thù địch với tôi; và đến đây thì tôi có thể xoa tay mà nói rằng ngay từ đầu tôi đã biếât anh ấy là thế nào rồi !
TẠM KẾT LUẬN
Xin tạm kết luận về khoa học về con người :
Một là : ngoài công việc đo lường thể chất bên ngoài, khoa học về con người không thể không chú trọng đến ý tưởng (ý nghĩa, dự định, mục đích) trong nội tâm của người trong cuộc.
Hai là : khoa hoc về con người cần phải đào sâu về phương pháp thuyên thích, nhất là nghiên cứu về ngôn ngữ và về các công dụng của ngôn ngữ. Nhưng đây lại là một vấn đề khác, tế nhị hơn, mà ta không đề cập được trong giới hạn bài này.
Nguồn:http://conggiaovietnam.net
[1] « Khoa học không phải là một hệ thống gồm những mệnh đề chắc chắn hay là đã được thiết lập vững chãi, cũng không phải là một hệ thống đang đều đều tiến tới trạng thái cuối cùng. Khoa học của chúng ta không phải là một tri thức (êpistêmê) : nó không bao giờ có thể có tham vọng là mình đã tới được chân lý, hay là tới được cái có lẽ thế (probabilité), là một cái tạm coi như chân lý … Thực ra chúng ta không biết được, nhưng chỉ phỏng đoán được. Và chính những lập trường không có tính cách khoa học, như siêu hình học (tuy có thể lấy sinh lý học mà giải thích được),làm cho ta tin vào các định luật mà ta tìm ra và đề cao, tin rằng rằng thế giới vận chuyển điều hòa, những lập trường ấy chỉ lối cho ta phỏng đoán » (Dịch theo bản Pháp văn La logique de la découverte scientifique, Paris, Nxb Payot, 1973, tr 284).
[2] Sách Thần học tổng luận (Summa theologica), Phần I, Vấn đề 2, Thiên 3, Vấn nạn 3.
[3] Tiếng Pháp là « objectives », nghĩa là có tính cách khách quan.
[4] Tiếng Pháp là « démontrables ». Đó là những chân lý về toán-học hay là luận-lý-học.
[5] Tiếng Pháp là « vérifiables ». Đó là những chân lý về các khoa học thiên nhiên, như vật-lý-học, hóa-học, sinh-vật-học.
[6] Sách viết bằng tiếng La-tinh tên là Regulae ad directionem ingenii (tiếng Pháp là : Règles pour la direction de l’esprit) đã được xuất bản năm 1701, nghĩa là 50 năm sau khi tác giả từ trần. Đoạn văn này là dẫn theo bộ sáchOeuvres et lettres (Tác phẩm và thư tín), tủ sách Pléiades, Paris 1952, tr 39.
[7] Chứ không phải là lý thuyết riêng của nhà Phật. Nguyên lý nhân quả tự nó chưa phải là khoa học : người ta thường nói : « Ở hiền gặp lành », « Ác giả ác báo », nhưng đó là nói chung chung, không rõ rệt, lại nhiều khi không đúng nữa. Ngoài ra, khi bị ốm đau hay rủi ro, người ta thường vội tìm ra những nguyên nhân không đâu, ví dụ như : « tại đái vào gốc cây đa thần » mà không có kiểm chứng gì cả.
[8] Muốn có ý kiến tổng quát về vấn đề, có thể tham khảo cuốn sách tập thể, dầy 1345 trang, Luận-lý-học và tri thức khoa học (Logique et connaissance scientifique,), do nhà tâm lý học Thụy-sĩ Jean Piaget chủ trương, xuất bản tại Paris năm 1967 trong tủø sách bách-khoa Encyclopédie de la Pléiade
[9] Xem : « Sciences et discours rationnel », trong Enzyclopaedia Universalis, tập 14, tr 754-757. Giáo sư Ladrière đã quá cố cách đâ ít lâu (chú thích năm 2007).
[10] Như đã nói trên đây, khoa học không thể dừng lại ở đợt kinh nghiệm chủ quan hay là thực nghiệm khách quan, mà còn phải dùng phép đo lường, và dùng đến toán pháp để đưa ra công thức các định luật và các lý thuyết.
[11] Ví dụ : ai cũng biết rằng nhà cháy là vì có người châm lửa, và vì có dưỡng-khí trong không khí. Vì thế muốn không cháy nhà thì chỉ cần không có người châm lửa, hay là … rút hết dưỡng-khí trong không khí đi ! Ta biết rằng ngày nay trong lý thuyêt vật lý học, người ta chủ trương rằng trong phạm vi những vật nhỏ hơn cấp nguyên tử, thì các định luật không còn có tính cách tất định, nhưng chỉ có giá trị thống kê mà thôi, cho đến nỗi dám nói rằng nồi nước để trên bếp lửa, thường thì thành nước nóng, nhưng không phải là không có thể thành nước đá. Tuy vậy trong đời sống thường nhật các thứ máy móc xe cộ ta dùng một cách rất hữu hiệu đều tựa vào các định luật có giá trị thống kê của khoa học cả.
[12] Đó là lý thuyết vậy thôi, vì lẽ người ta phải sống trong thế giới này đã, rồi mới bày ra lập luận « cao siêu » như thế. Chứ chẳng có ai bắt đầu từ cái « tâm » của mình rồi đặt ra tất cả thế giới bên ngoài bao giờ cả. Để tránh cái khó khăn đó, người ta đưa ra chủ trương rằng cái « tâm » đã tạo ra thế giới này một cách vô ý thức, trước khi ta có ý thức. Nhưng đã vô ý thức như vậy thì làm sao mà ta lại ý thức, lại biết được ?
[13] Trong cuốn sách Streifzuege durch die Umwelten von Tieren und Menschen – Bedeutungslehre , Hamburg, Rowohlts deutsche Enzyklopaedie, 1956; bản dịch Pháp văn là Mondes animaux et monde humain, suivi deThéorie de la signification (Thế giới loài vật và thế giới con người – Lý thuyết về ý nghĩa), Paris, NXB Gonthier, 1965.
[14]Herméneutique, do từ ngữ Hi lạp Hermeneia, người Pháp dịch là Interprétation, giải nghĩa, tìm ra ý nghĩa bên trong.
[15] Những ai quen với tiểu thuyết Tàu, đều hiểu thế nào là vai trò của mưu sĩ, đếu hiểu thế nào là « mỹ nhân kế », là « khổ nhục kế ».
[16] Muốn tránh những vấn đề khó giải quyết, người ta thường cho rằng đó là lời thần dạy, thánh phán, không ai được thay đổi hay là phiên dịch gì cả.
[17] Xem : Franz Mussner, Histoire de l’hermeéneutique, Paris NXB Cerf, 1972. Phong trào được phát triển sâu rộng trong tác phẩm của một vài triết gia đương thời, như Paul Ricoeur ở Pháp và Hans Georg Gadamer và Juergen Habermas ở Đức.
[18] Người Hi-lạp gọi thế giới là Kosmos, chữ này có nghĩa là Thứ tự, vì họ quan niệm rằng thế giới có thứ tự hẳn hoi ; còn người La-tinh thì dùng chữ Mundus, có nghĩa là gọn ghẽ sạch sẽ, để gọi thế giới (tiếng Pháp là Monde).
[19] Thực ra hai chữ « tôn giáo » lại cũng được dùng để chỉ vô số thái độ và thực hành rất khác nhau như : thần thoại, phù thủy pháp môn, lễ bái cúng tế, những suy luận về nguyên lý tối cao, v.v. Ngoài ra lại có người cho rằng tôn giáo là gồm tất cả những gì phi-lý, vô-lý, nghịch-lý hay là ngoại-lý. Ở Aâu Mỹ, nhất là ở Hoa kỳngày nay có vô số người bày đặt ra những thuyết, những hội mà nội dung rất mơ hồ, rồi gọi tất cả là tôn giáo, là giáo hội. Nhà nước không còn biếât thực hư ra sao nữa. Cho nên cái mà người này cho là tôn giáo thì chưa chắc đã là cái mà người khác hiểu là tôn giáo. Aáy là không nói đến những người dùng chiêu bài tôn giáo để che đậy cho hoạt động chính trị, hay là hoạt động kinh tài. Vấn đề quả là phiền tạp.
[20] Có người cho rằng chi bằng chủ trương con người không có tự do, mà hoàn toàn do các yếu tố ngoại lai, do các yếu tố đã có trước (trong kiếp trước ?) định hình, thì hết vấn đề rắc rối. Nhưng nếu con người không có tự do, thì không có trách nhiệm gì, và vì thế xã hội không thể thưởng công ai hay là phạt tội ai cả.
[21] Xem Collected Papers, tập II, Den Haag, 1964, trang 81-88.