Lò đốt mùn cưa cải tiến
Các phương pháp đốt mùn cưa đã từ trước tới nay là công nghệ ép nén mùn cưa bột thành que (như que củi), hoặc thành cục, hòn (như hòn than) sau đó dùng cục hoặc que từ mùn cưa để đun đốt lò (phương pháp này cần đầu tư lớn và có công nghệ hiện đại); qui trình đốt mùn cưa (theo mẻ) trong điều kiện thiếu không khí, tạo ra khí ô xít các bon (CO) tương tự khí ga sau đó có công cụ đốt khí CO cho năng lượng (phương pháp này cần công cụ khá phức tạp hay như đốt trực tiếp bằng cách phun mùn cưa vào lò đốt nhờ một loại công cụ, và quạt điện thổi không khí liên tục, tạo lò đứng đóng mùn cưa theo mẻ (việc này cần công cụ chuyên dùng khá phức tạp, phù hợp các lò đốt cỡ lớn như lò gạch…). Lò đốt mùn cưa cải tiến của anh Long khắc phục được các nhược điểm trên.
Lò gồm có các bộ phận chính: Vỏ lò (xây bằng gạch thẻ hoặc đúc bằng bê tông xi măng cốt thép), nõ lò (lồng sắt rỗng trong ruột lò), kiềng dưới (kiềng tròn 3 chân cao 20 cm) để kê nỏ lò, kiềng trên (kiềng tròn hoặc vuông, không chân, có 4 mấu cao 2 cm) để đặt nồi.
Nõ lò: Dùng phế liệu sắt phi 6, cắt, hàn 1 cái nõ hình lồng trụ tròn, có kích thước đường kính 5-10 cm, cao tùy kết cấu công suất lò (tốt nhất cao khoảng 50-70cm). Các thanh sắt hàn cách nhau 1 cm. Đáy nõ hàn 1 tấm tròn (hoặc vuông, tùy kết cấu lò) bằng kích cỡ chiều rộng của lò (lọt lòng), khoảng cách các thanh sắt phi 6 là 1 cm.
Thân vỏ lò: Dùng gạch thẻ loại nhỏ và đất sét, xây 1 lò vuông hoặc tròn bằng đường kính đáy nõ. Phần đáy lò phải xây nhỏ lại để đặt vừa đáy nõ (thay cho kiềng dưới). Trên miệng lò có cửa để thoát khói và nạp nguyên liệu, lệch hướng với cửa dưới (cửa đun nhóm lửa).
Với loại lò cỡ nhỏ, có thể đúc bằng bê tông xi măng, hình vuông 4 mặt đều nhau. Phía dưới chừa cửa đun 15 – 20 cm. Bên trong tạo gờ thắt để kê nõ lò. Cho nõ sắt vào trong lò. Đổ mùn cưa, trấu vào lò theo yêu cầu. Dùng củi nhỏ đốt ở miệng lò.
Với loại lò nhỏ thấp, sức hút yếu, có thể sử dụng 1 quạt điện mi ni 12 vôn để quạt phụ trợ cho lò cháy nhanh.
Nguyên lý hoạt động của lò: Đun mùn cưa bằng lò gạch đất sét, lò xi măng, nguồn nhiệt ít bị hao tổn, lượng mùn cưa có thể cho vào lò bất cứ lúc nào, với số lượng tùy nhu cầu. Mùn cưa, trấu được cháy triệt để. Lò có thể đun trong thời gian kéo dài cả ngày hoặc nhiều ngày liên tục. Thao tác thuận tiện, tốn ít công sức (không mất công đóng lò). Ngọn lửa nhóm tập trung ở đáy nồi, lò cấu trúc cao, có sự chênh lệch áp suất, tạo sức hút, cho hiệu suất nhiệt, tốc độ cháy cao, tận dụng tối đa lượng mùn cưa nạp lò. Mùn cưa cháy hết nên ít có khói, giảm ô nhiễm môi trường. Nhờ chiều cao (nguyên lý lò cao), sự chênh lệch áp suất khi không khí bị đốt nóng đã tạo dòng khí lưu chuyển từ dưới lên trên, trong nõ lò trở thành khối lửa, cháy dần mùn cưa được nạp liệu. Nõ lò tạo khuôn giúp mùn cưa ở trạng thái xốp, không cần đóng chặt, dễ cháy, không bị sập.
Lò đốt mùn cưa trấu có thể được thiết kế với nhiều qui mô công suất, sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như đun nấu, đốt lò sưởi úm gà, sấy nông sản …