Lễ Tịch điền qua các triều đại
Nghi lễ được tổ chức như một ngày hội. Nhà vua ra khỏi thâm cung bằng một cỗ xe trên có chở một chiếc cày. Theo sau xe là bá quan văn võ. Đoàn nghi lễ đi thẳng tới Sở Tịch điền. Tại đây, nhà vua đích thân xuống ruộng cày năm luống, rồi trao cày lại cho các công khanh đại phu. Các công khanh đại phu cày bảy luống. Sĩ phu cày chín luống. Hoa màu thu hoạch được ở thửa ruộng này sẽ sung công dùng vào việc cúng tế.
Càng về sau lễ Tịch điền được tổ chức rườm rà hơn, có thêm lễ tam sinh, có phường nhạc cử những bài ca về đồng áng, có lễ đài cao 9 thước sơn xanh, trên đài có nhà tế.
Các vua chúa nước ta du nhập lễ Tịch điền từ Trung Hoa vào đời vua Lê Đại Hành và tổ chức lần đầu là năm Thiên Phúc thứ 8 (987). Mùa xuân đó, Lê Hoàn thân hành ra cày ruộng ở Đội Sơn, theo truyền thuyết, thì bắt được một chum vàng. Năm sau, vua cày ruộng ở Bàn Hải cũng bắt được một chum bạc. Vì thế, những thửa ruộng này được gọi là Kim Ngân Điền.
Đến đời Lý, lễ Tịch điền được cử hành long trọng hơn. Năm Thông Thuỵ thứ 5 (1038), vua Thái Tông cày ruộng ở Bố Hải, sai quan lại chọn đất xây đàn cúng tế. Vua làm lễ tế Thần Nông cầu cho được mùa lúa tốt, không bị thiên tai làm hư hại, rồi tự cầm cày để cày ruộng.
Sang đời Trần, vua không thân hành ra làm lễ Tịch Điền, mà chỉ sai quan lại đắp đàn Xã Tắc mà cúng tế.
Đời Hậu Lê năm Hồng Đức thứ 15 (1484), vua Thánh Tông dựng đàn Tiên Nông ngoài thành Thăng Long. Hàng năm, vào tháng Trọng xuân, vua và các quan cúng tế Thần Nông và làm lễ Tịch điền. Nhà vua đích thân cầm cày để cày ruộng.
Đời Trung Hưng, chúa Trịnh ra tế thay vua, tế ba tuần rượu, rồi sai quan cày ruộng.
Đến triều Nguyễn, lễ Tịch điền được tổ chức một cách long trọng. Vua Minh Mạng ban dụ chỉnh đốn lại các nghi lễ cổ truyền. Việc tổ chức lễ vua giao cho bộ lễ. Nở củ hành lễ là Sở Tịch điền đặt tại phường Yên Trạch. Ở đây, đã có sẵn một cái đài cao để nhà vua ngự xem cày gọi là Quan Canh. Lễ cử hành vào mùa hạ tháng thứ hai. Trước lễ một ngày, quan đầu tỉnh Thừa Thiên phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ: một cày, một bừa, một thúng thóc giống rồi rước trên long đình. Trước đó bốn ngày, các quan họp lại, mời vua ra thử cày trước. Lễ vật được sắm sửa gồm có: ngọc trắng, lụa trắng, trâu, dê, lợn, rượu, xôi, hoa quả và hương nến.
Sáng sớm hôm hành lễ, đám rước vua đi thật long trọng, rực rỡ, đầy đủ những nghi thức của vua chúa. Chiêng trống nổi lên vang lừng. Hai bên đường dẫn tới nơi hành lễ, các quan đại thần, hoàng phi, nội thân ngoại thích và dân chúng đứng xếp hàng nghiêm chỉnh, lại có cờ cắm rợp trời. Phường bát âm luôn cử hành khúc nghinh xuân, tiếp giá. Đúng giờ Mão, bảy tiếng pháo nổ báo hiệu nhà vua khởi hành.
Hôm ấy, nhà vua đội mũ Cửu long, mặc Hoàng bào. Mở đầu lễ là nghi thức quán tẩy (rửa tay). Sau đó là nghi thức hiến tửu (dâng rượu). Lễ tất, nhạc nổi lên. Quan bộ Lễ dẫn vua sang nhà cụ phục. Ở đó, nhà vua thay áo, đội khăn, rồi ra ruộng cày. Các ban đại nhạc, nhã nhạc đều cử nhạc long trọng.
Quan bộ Lễ đứng ra tâu xin làm lễ Tịch điền. Vua đến chỗ cày, đứng quay về hướng nam. Quan bộ Lễ dâng chiếc cày sơn vàng. Quan Phủ doãn dâng roi. Vua tay phải cầm cày, tay trái cầm roi, phụ tá có bốn vị bô lão chức sắc, hai người dắt con bò phủ lụa vàng, hai người đi hai bên đỡ cày. Quan Thái thường đi trước hướng dẫn. Hoàng tử và quan Hộ bộ Thương thư theo sau mang thúng thóc, vừa đi vừa rắc hạt giống.
Vùa cày xong ba luống thì trao cày và roi cho hai quan theo hầu là Thừa thiên Phủ doãn và Thượng thư bộ Hộ. Sau đó, nhà vua ngự đến nhà Quan Canh để chứng kiến các quan chức, hoàng thân cày tiếp.
Các Hoàng thân, Hoàng tử đội mũ vàng, mặc áo gấm đỏ, cầm cày và roi cày 10 luống. Quan văn võ đại thần gồm 9 người, cày 18 luống. Phần còn lại dành cho các chức sắc, bô lão sở tại. Cày của các Hoàng thân, Hoàng tử cùng các quan lại đều sơn màu đỏ.
Mọi người cày xong, vua lên kiệu về cung ban yến cho các quan lại và thưởng tặng the lụa.
Khi lúa chín, quan tỉnh Thừa Thiên trông coi việc gặt hái cùng một vị quan thuộc Hộ bộ, lựa chọn hạt giống dự bị gieo vào lễ Tịch điền năm sau. Lúa nếp gặt về đem trữ vào khu dùng để tế lễ, tế giao, tế thần và tế lăng miếu.
Sau này, trong một lễ Tịch điền, vua Thiệu Trị đã cảm tác viết bài “Thường Mậu quan canh”, trong đó có bốn câu nhấn mạnh ý nghĩa của lễ Tịch điền như sau:
“… Chót vót lầu cao giữa khoảng không
Nhìn xa quang cảnh chốn nương đồng
Ba đường dẫn lối khuyên cày cấy
Năm tháng thương người trọng việc nông…”.
Các đời vua Tự Đức, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định đều tổ chức lễ Tịch điền, nhưng có thay đổi ít nhiều về nghi thức.
Ngày nay, một số miền quê ở Thừa Thiên - Huế hàng năm vẫn còn duy trì ngày hội Xuống đồng, như là dấu ấn còn lại của lễ Tịch điền xưa.
Ngoài ý nghĩa nhân văn, đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh của con người, lễ Tịch điền còn thể hiện một chính sách khuyến nông độc đáo, có ảnh hưởng tích cực đến nông nghiệp và nông thôn nước ta trước đây.
Nguồn: Dân tộc và Thời đại, số 88, 3/2006