Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 03/07/2008 23:55 (GMT+7)

Lễ thức trong đám tang truyền thống ở dân tộc Thổ

Khi có người qua đời, tang chủ lập tức báo cho trùm làng ( người Thái báo cho “chầu đằm” của bản). Trùm làng đánh 9 tiếng cồng (hoặc trống) và khắc luống để cho dân làng biết ( việc này ở người Thái do con trai trưởng hoặc thứ đảm nhiệm), Người Thái chỉ đánh trống, nổi mõ, không khắc luống. Nghe báo hiệu ấy, mọi người đều đến tập trung tại nhà có tang, chia nhau công việc chuẩn bị cho lễ tang như: mời thầy mo, phường nhạc, làm quan tài, nhà mồ, sắm sửa khăn áo tang…

Nhà nào cũng vậy, thi hài được liệm ở trên sàn ( ngày trước người Thổ đều ở nhà sàn). Liệm xong, “kê cối kê chày” để đặt quan tài, rồi bà con làng xóm chuẩn bị khiêng đi mai táng. Đáng tang nhà nghèo thì đơn giản, chỉ có 8 hoặc 10 người khiêng quan tài, không chấp hiệu, không có nhạc tang. Còn nhà giàu, thi hài được tắm rửa, thay quần áo mới ( tục này như ở người Thái, chỉ khác là người Thái không phân biệt giàu, nghèo), rồi đặt nằm trên chiếu tại gian giữa, đầu quay vào trong, mặt đắp một vuông vải trắng ( người Thái thì đắp lên thi thể một tấm chăn thêu lộn ngược). Thi hài được quàn từ 1 – 3 ngày, con cháu ngồi quanh than khóc.

Quan tài thường làm bằng một cây gỗ bổ đôi ( như người Thái), thường là gỗ dổi, vàng tâm. Hai nửa cây gỗ được khoét lòng máng; phía bên ngoài đẽo theo hình lục lăng hoặc dốc vét khum khum. Quan tài cho đàn ông thì, nắp trên và dưới có 7 đẽo, đàn bà thì có 9 đường, phía dưới thường được khoét một lỗ nhỏ, đề phòng nước từ thi hài rỉ ra, khi quàn lâu ngày trong nhà. Khâm liệm xong, quan tài được nắp kín bằng một chất keo làm từ cám và đất sét trộn lẫn. Hai nửa quan tài buộc chặt lại bằng cật tre.

Khi di chuyển đi mai táng thì đặt trên 6 đòn ngang ( người Thái chỉ đặt trên 2 đòn) và 2 đòn dọc, do 16 người khiêng đi theo sự chỉ huy của chấp hiệu ( giống như người Việt). Phía chân quan tài đi trước khi ra khỏi nhà và xuống sàn. Trên quan tài không có nhà táng, không thắp nến, cũng không có hương khói gì ( người Thái thì ngược lại: trên quan tài có nhà táng gọi là “Bốn xúng”, đến trạm nghỉ mới dỡ ra, 2 đầu quan tài có thắp nến).

Nhà mồ của người Thổ tương tự nhà táng của người Việt ở miền xuôi ngày xưa. Nhà mồ ( gọi nhà vẹ) làm bằng gỗ hoặc tre nứa, xung quanh là nứa đan hoặc dán giấy xanh, đỏ, mái lợp lá cọ hoặc giấy có vẽ hình mái ngói. “Nhà vẹ” có thể làm tại huyệt hoặc tại nhà rồi khiêng theo quan tài, sau khi lấp mồ, úp lên trên để khi hỏng thì bỏ. Mỗi gia tộc, dòng họ có khu vực mai táng riêng, gọi là “đôống”.

Người Thổ không tảo mộ, không cải táng. Hàng năm, vào cuối tháng chạp âm lịch hoặc gặp dịp có đám ma nhà khác đưa qua “đôống” nhà mình, đồng bào mới ghé thăm và quét dọn, thắp hương cho mộ người thân.

Lễ thức các con nằm phủ phục áp đấp để tiễn đưa cha Phục vụ đám tang trong thời gian quàn ở nhà cho đến khi chôn cất, có một ban nhạc gồm kèn xô na với một trống to, một cồng nhỏ, một cồng to, một pục pọng, một phèng la, một chũm choẹ: Đây là ban nhạc rất đặc trưng, chỉ dân tộc Thổ mới có. Ban nhạc này không chỉ phục vụ tang lễ mà còn phục vụ một số sinh hoạt văn hoá khác nữa.

Ở người Thổ Mọn, Kẹo, nói chung, tại Nghĩa Đàn, Tân Kỳ và một số xã thuộc Quỳ Hợp ( như: Tam Hợp, Thọ Hợp, Nghĩa Xuân, Văn Lợi, Hạ Sơn…) trong thời gian quàn thi hài trong nhà cho đến lúc đưa đi mai táng thường có một số nghi lễ truyền thống độc đáo như: lễ “ Thăm ún đôộng eng”, lễ “ Thăm bến nước”, lễ “ Cắt xắc (cắt tóc)”, lễ “ Tơm kem”, lễ “ Cúng cơm” và lễ “ Xí vong”. Trong đó lễ “ Thăm ún đôộng eng” khá độc đáo. Người ta dùng rơm hoặc vải bện thành một hình nhân mặc quần áo của người quá cố và đắp mặt na ná như mặt người mới chết, rồi đặt lên cáng bằng gai đến từng nhà bà con, họ hàng, làng xóm.

Tới mỗi nhà, thầy mo thay mặt người quá cố cảm ơn sự giúp đỡ và tình cảm sâu nặng của chủ nhà đối với mình lúc còn sống và chào vĩnh biệt. Còn chủ nhà thì khóc lóc, kể lại công đức của người quá cố và nói lên lòng thương tiếc vô hạn của mình. Lễ “ Thăm ún độông eng” xong, hình nhân được đưa đến các bến sông, giếng nước ( tục này na ná giống ở người Thái…) những nơi mà khi còn sống, người đó thường hay đến để tắm rửa, lấy nước. Tại những nơi này, con dâu hoặc con gái, em gái người quá cố, thay mặt người đó, kể lại sự gắn bó của người này với những kỷ niệm sâu sắc, đồng thời cảm ơn công lao của những nơi này đối với người quá cố khi còn sống, rồi chào vĩnh biệt…

Các nghi lễ truyền thống khá độc đáo như đã nói ở trên cho thấy, từ xa xưa, trước cả khi hình thành tộc danh Thổ, đồng bào đã có sự gắn bó rất sâu sắc giữa thế hệ này với thế hệ khác, tính cộng đồng khá bền chặt giữa người đang sống và người đã khuất và với mảnh đất đã cưu mang mình.

Điểm độc đáo nữa trong đám tang của người Thổ ở vùng Tân Kỳ, Nghĩa Đàn là người ta ít cảm nhận thấy không khí tang tóc, sầu bi. Bên cạnh tiếng khóc tiếc thương của phụ nữ là tiếng kèn xô na, không ai oán, réo rắt, não lòng như tang nhạc của người Thái và người Việt. Tiếng cồng tấu lên với nhịp điệu khá nhanh, nếu là người dân tộc khác, khi nghe tiếng nhạc ấy khó nghĩ rằng đó là nhạc đám ma.

Tìm hiểu kỹ nguyên nhân thì được biết, sở dĩ có hiện tượng ấy, bởi vì người Thổ ở vùng này không quan niệm rằng “ chết” là hết, mà là “ hoá”, nên trước và trong khi đưa người thân đến nơi an nghỉ cuối cùng, đồng bào thường tổ chức những trò vui nhộn như: múa lang bang, bịt mắt bắt dêvà đấu vật… ở ngay cạnh nơi đặt quan tài ( rất giống người Thái nhóm Tày Mường). Nhưng đám tang người Thổ ở vùng Quỳ Hợp ngày nay, thì khá bi ai, sầu não. Ở đây không có múa “lang bang” ( điệu múa diễn tả các động tác của người đi săn, được biểu diễn trên nền nhạc của ban nhạc tang như đã nói), không có trò chơi “bịt mắt bắt dê” mà chỉ có trò đấu vật.

Trò đấu vật thường diễn ra trước khi đưa đám tại sân nhà và chặng nghỉ giữa đường từ nhà đến “đốông ( đây là trạm dừng chân, giống như tang lễ của người Thái. Đoạn đường này dù ngắn hay dài cũng nhất thiết phải có trạm dừng chân). Sở dĩ có trò đấu vật này vì đồng bào quan niệm đây cũng là một trò chơi mang tính thượng võ, lôi cuốn nhiều người xem là tham gia hò reo, cổ vũ. Vì tế mà đám tang bớt bi ai, buồn thảm. Mục đích là làm cho “con ma” vui vẻ rời nhà đi ra “đốông”, đỡ lưu luyến căn nhà và những người thân đã từng gắn bó với mình, vì ma đã thuộc về thế giới khác.

Khi đưa quan tài ra khỏi nhà thì người Thổ vẫn đi theo cầu thang xuống như hàng ngày. Còn người Thái đi lại theo cầu thang mới do các “chú rể làm phúc” dựng lên. Lúc đưa tang, con cháu đều phải chống gậy sậy ( hoặc gậy lau). Con cháu trong nhà, trong họ là nam đều đội mũ rơm, thắt dây chuối ngang lưng. Riêng con trai trưởng hoặc chồng thì buộc tờ giấy trắng trước mũ rơm;còn nữ giới đều đội “tóc móc” (mũ cuốn). Mũ, gậy, dây lưng, tóc móc sau đó để lại trên phần mộ, trong “ nhà vẹ”.

Đắp mộ xong, con cháu đi theo ông mo quanh mộ 3 vòng trước khi ra về ( giống với tục người Việt). Trong khi đi vòng quanh mộ, người nọ không được nhìn lại người kia. Sau đó, ông mo lấy một cành lá quét hết các dấu chân của những người đưa đám, mục đích là để con ma không biết lối trở lại ngôi nhà cũ của mình ( người Thái thì ngược lại, khi đắp mộ xong, ông mo lấy dao vạch trên mộ 3 con đươờg để chỉ lối cho linh hồn, trong đó có dấu chỉ về bản cũ và ngôi nhà cũ của mình).

Người Thổ chịu tang 3 năm, cách để tang giống như người Việt. Sau bữa cơm mở cửa mả ( cúng 3 ngày), rồi lễ 50 ngày, 100 ngày, linh hồn người quá cố được cúng chung với tổ tiên vào các dịp lễ, tết, hàng năm. Người Thổ Mọn ở Quỳ Hợp, mỗi người qua đời đều được thờ trong một hoọc(bàn thờ) bên cạnh hoọcthờ tổ tiên. Nếu có 2, 3 người mất trong cùng một năm, thì các hoọcthờ được sắp xếp theo thứ bậc như khi còn sống. Vào những ngày lễ, tết, chỉ hoọcthờ tổ tiên là có mâm cỗ, các hoọckhác chỉ thắp hương. Sau 3 năm, mỗi hoọcriêng ấy mới đưa vào hoọcthờ chung với tổ tiên. Khi ấy, người ta đốt hoọcđi.

Về vật chất, đám tang truyền thống của người Thổ ngày xưa, như đã nói, rất tốn kém. Nhà nghèo, thật khómà theo tục lệ được. Thường thì ngày đưa ma, bà con trong làng luôn giúp tang chủ một mâm cơm để thết đãi người đi đưa đám. Các ngày khác, tang chủ thường vật trâu, mổ lợn, nấu cơm, rượu để thết đãi những người đến viếng, đến làm giúp, dù thi hài có quàn trên nhà bao nhiêu ngày cũng vậy. Ngày xưa, trong bữa cơm tang, có một mâm được dọn trên lá chuối để bà con cùng huyết thống bốc ăn mỗi người vài miếng. Đó là tục “ăn ké” để con cháu nhận ra nhau trước linh cữu để không lấy lẫn nhau.

Ngoài tục “ăn ké”, còn có tục “nằm ấm”. Tục này diễn ra trước ngày đưa ma. Đêm đó, tất cả con cháu và người thân trong họ nội, họ ngoại đều có mặt ở nhà tang chủ để “cùng ở” với người quá cố một đêm cuối cùng. Đồng bào gọi đó là “trực họ” để trải mặt với thiên hạ. Tục này cũng có trong cộng đồng người Thái, nhất là nhóm Tày Mường ở Quỳ Hợp (Nghệ An), gọi là tục “ Đống khó”…

… Ngày nay, theo nếp sống mới, đám tang của người Thổ đơn giản hơn nhiều. Cùng với sự biến mất của nhà sàn, đám tang bây giờ cũng na ná như đám tang của người Việt. Tục quàn xác lâu ngày, gây mất vệ sinh đã hoàn toàn chấm dứt. Việc thù tiếp, ăn uống lu bù giảm đi rất nhiều, nhưng tình làng nghĩa xóm thì vẫn tốt đẹp, vẫn đầm ấm trong nếp sống văn hoá mới.

Lễ thức các con nằm phủ phục áp đấp để tiễn đưa cha

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh
Đại hội Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam (VUSTA) nhiệm kỳ 2025–2030 được tổ chức thành công vào sáng ngày 21/7. Tại Đại hội, đại diện Đoàn Thanh niên VUSTA đã có bài phát biểu chúc mừng đại hội. Bí thư Đoàn Thanh niên Lê Thị Thủy khẳng định: “Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh và luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới đất nước”.
Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương
Hướng tới chào mừng Đại hội Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương và biểu trưng (logo) Đại hội đại biểu Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030 được chính thức khởi động từ ngày 18/7/2025.
Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Kể từ khi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập ngày 26/03/1983, Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua 9 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã thực sự trở thành những mốc son quan trọng, đánh dấu bước phát triển cả về tư duy chính trị lẫn phương thức hoạt động của toàn hệ thống.