Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 13/08/2005 15:23 (GMT+7)

Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa

1. Nguồn gốc và chức năng đội Hoàng Sa

Về quần đảo Hoàng Sa đã có một số tư liệu của tác giả trong và ngoài nước, đặc biệt là của các sứ thần, các học giả thời phong kiến Việt Nam . Nguồn tư liệu đầu tiên có nhắc đảo Hoàng Sa và đội Hoàng Sa là mấy dòng trong lời chú " Toàn tập Thiên Nam Tứ chí lộ đồ" của Đỗ Bá (năm Chính Hào thứ 7 - 1686): " Bãi Cát Vàng dài 400 dặm, rộng 20 dặm, ở giữa biển khoảng từ cửa Đại Chiêm kéo đến cửa biển Quyết Mông (cửa Sa Kỳ - Tg). Gió tây nam thuyền đi phía trong sẽ dạt lại ở đó. Gió đông bắc mà thuyền đi cũng bị mắc tại đây, đều bị chết đói, của cải phải bỏ lại. Mỗi năm đến tháng cuối đông (chúa Nguyễn) đưa 18 chiếc thuyền đến đó nhặt vàng bạc". Sau những ghi chép của Đỗ Bá là các ghi chép liên quan đến Hoàng Sa và đội Hoàng Sa của Chúa Nguyễn của Thích Đại Sán trong " Hải ngoại kỷ sự" (1767), của Pière Poivre, của Bá tước D"Estaing (tài liệu chữ Pháp - 1901).

Trong " Phủ biên tạp lục", Lê Quý Đôn (lúc làm Hiệp trấn Thuận Hoá, 1776) đã ghi về đội Hoàng Sa như sau: " Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người An Vĩnh sung vào, cất phiên mỗi năm cứ tháng hai nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm thuyền câu tư mà ra biển, ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem ra bán riêng các thứ ốc vân, ba hải, hải sâm rồi lĩnh bằng trở về". Sách " Hoàng Việt địa dư chí" của Phan Huy Chú, phần về phủ Tư Nghĩa (Quảng Ngãi) cũng ghi: " Quần đảo Hoàng Sa ở ngoài khơi, các vua đời trước đặt ra quân giữ Hoàng Sa gồm 70 người, thường là lấy người xã Yên Vĩnh. Hằng năm cứ đến tháng 3 nhận lệnh mang lương thực trong 6 tháng rồi dùng 5 chiếc thuyền ra khơi, đi trong ba ngày ba đêm thì đến đảo, đến nơi vừa canh giữ vừa đánh cá vừa ăn. Vật báu ở đó rất nhiều, nên đội quân này vừa làm nhiệm vụ canh giữ vừa khai thác vật báu. Đến tháng 8 thì về cửa Eo (Thuận An) lên tâu nộp ở thành Phú Xuân". Sách "Đại Nam thực lục" (tiền biên), quyển 10, cũng có ghi về đội Hoàng Sa có nội dung tương tự. Sách "Đại Nam nhất thống chí",quyển II, phần về tỉnh Quảng Ngãi, ngoài phần ghi chép của các cuốn sách trước còn ghi thêm rằng: " ... lại đặt đội Bắc Hải, do đội Hoàng Sa kiêm quản, để đi lấy các hải vật ở các đảo". Trong sách này (dịch và in năm 1970) còn có phần Phụ lụcriêng về quần đảo Hoàng Sa do học giả Đào Duy Anh (người hiệu đính) trích từ các sách đã in trước đó như " Việt sử cương giám khảo lược", " Hải ngoại kiến văn lục", " phủ biên tạp lục". Có lẽ cũng dựa vào các sách trên, các tác giả sách " Quảng Ngãi tỉnh chí", " Quảng Ngãi nhất thống chí" cũng có đề cập đến đội Hoàng Sa với nội dung tương tự.

Qua các tư liệu đã dẫn trên kia, có thể thấy , với ý thức về chủ quyền lãnh thổ và nguồn tài nguyên thiên nhiên vô giá ở Biển Đông, nên ngay từ khi vào trấn nhậm phương Nam, Chúa Nguyễn đã cho lập đội Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa được thành lập chính xác vào năm nào chưa rõ, chỉ biết vào "hội đầu bản triều", "Hồi đầu dựng nước", tức sớm nhất cũng phải cuối thế kỷ XVI hoặc đầu thế kỷ XVII và bị "triệt bãi" có lẽ là vào những năm thực dân Pháp tiến hành cuộc xâm lược ở Việt Nam. Nguồn tư liệu trên cũng cho thấy, 70 suất đinh phiên chế hàng năm cho đội Hoàng Sa trước hết là làng An Vĩnh, về sau còn có thêm người của làng An Hải.

Căn cứ trên các tài liệu đã nói, đội Hoàng Sa được thành lập dưới thời chúa Nguyễn và sau này là triều Nguyễn, là người của làng An Vĩnh, An Hải trong đất liền, cả hai làng An Vĩnh và An Hải ngoài Lý Sơn, nhưng chủ yếu là của hai làng An Vĩnh(Một số tác giả đã nhầm lẫn khi cho rằng 70 phiên chế hàng năm trong đội Hoàng Sa chỉ là người trên đảo Lý Sơn. Và đến đầu thế kỷ thứ XIX trở về sau, đội Hoàng Sa chủ yếu là người An Vĩnh (nay là Lý Vĩnh) trên đảo Lý Sơn.

2. Các di tích gắn liền với đội Hoàng Sa

Hiện nay tại làng An Vĩnh vùng của biển Sa Kỳ và trên đảo Lý Sơn còn nhiều di tích (chính) gắn với đội Hoàng Sa năm xưa:

+ Trong đất liền: chủ yếu tại làng An Vĩnh (nay thuộc Tịnh Kỳ, Sơn Tịnh): 1/ Vườn đồn- nơi lính Hoàng Sa đóng doanh trại. 2/ Dấu tích Miếu Hoàng Sa- nơi đội Hoàng Sa tế thần trước khi lên thuyền một đi không trở lại. Trước đây trong miếu thờ có thờ cốt ông Hoàng Sa (xương cá voi), gọi là thần Hoàng Sa, mà những người lính Hoàng Sa đưa về từ quần đảo này, cách đây chừng ba trăm năm. 3 /Đình làng An Vĩnh, nơi những binh phu Hoàng Sa trong đất liền lẫn Cù Lao Ré tế tự trước khi xuất hành lẫn khi trở về (căn cứ trên những tài liệu hiện còn có thể xác định được đội Hoàng Sa xuất hành tại cửa biển Sa Kỳ, chứ không phải tại Lý Sơn) (5).

+ Trên đảo Lý Sơn: 1 /Âm linh tự (Lý Vĩnh), nơi còn đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong, hàng năm đều có tế tự lính Hoàng Sa và những người bỏ mình trên biển. 2/ Miếu thờ và mộ cai đội Phạm Quang Ảnh(tương truyền được phong Thượng đảo thần). 3/ Nhà thờ tộc họ Phạmcó nhiều người đi lính Hoàng Sa (trong nhà thờ còn có câu đối thể hiện ý chí và lòng trung thành của dòng họ vì đất nước: Trung can huyền nhật nguyệt/Nghĩa khí quán càn khôn).4/ Dinh Ông Thắm, thờ cai đội Võ Văn Khiết (dân trong thôn xem ông như Thành Hoàng, cũng tương truyền được phong Thượng đẳng thần). 5/ Khu mộ gió, là một khu nghĩa địa dành cho lính Hoàng Sa nhưng bên dưới không có xác người (vì chết mất xác) nhưng trên mỗi ngôi mộ đều có tên tuổi những người lính Hoàng Sa.

3. Nghi lễ - phong tục

Nguồn gốc nghi lễ:

Cho đến nay, người dân vùng biển Quảng Ngãi vẫn còn lưu truyền câu ca:

Hoàng Sa trời nước mênh mông

Người đi thì có mà không thấy về

Hoàng Sa mây nước bốn bề

Tháng hai khao lề thế lính Hoàng Sa

Lời ca buồn bã, não ruột trên đây la lời tóm tắt số phận những người đi lính thú Hoàng Sa thuở xa xưa ấy. Họ như Kinh Kha một đi không trở lại. Biết số phận mỏng manh giữa trời mây non nước, trước khi ra đi, mỗi người phải chuẩn bị riêng cho mình: một đôi chiếu, sẽ là vật để quấn xác nếu không may bị gục ngã; 7 đòn tre, sẽ là vật nẹp quanh thân; 7 sợi dây mây, sẽ được dùng để bó xác người. Thi thể người lính nếu không may xấu số ấy sẽ được đồng đội thả xuống biển cả mênh mông. Chiếc thẻ bài bằng tre có ghi tên tuổi, làng quê, phiên hiệu được cài trong bó xác sẽ là thông điệp gửi lại cho gia đình và bản quán nếu thi thể chưa kịp làm mồi cho cá dữ, khi sóng cả chưa kịp làm tan tành những nẹp tre cùng mấy sợi dây mây. Một đoạn bài văn tế lính Hoàng Sa não ruột sau đây, đã là lời minh chứng cho một nguồn gốc một tập tục thờ cúng không nơi nào có:

"Cúi nghĩ: cõi u minh khó lòng tưởng tượng, chất trong chất đục phong hoá từ đầu. Ngoảnh sang Đông, ngóng về Tây, hướng đi mơ màng dễ dàng lạc bến. Ôi sắc nước hương trời xa đôi nẻo, lòng dễ mến yêu: Thuỷ phủ khiến sức nước ngưng, buổi sáng trong veo như trang điểm, cho hồn các vị tựa hàng tiên. Tiếng sóng động đông dài, tưởng niệm dấu thần phương nao mờ mịt, ngóng hồn thiêng xa vời vợi mong được hàm ơn...".

Nghi thức tế tự:

Để có chút niềm hy vọng người ra đi còn may mắn trở về, người dân làng An Vĩnh làm lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, nếu là cho người sắp bước xuống thuyền để lênh đênh cùng trời mây và bọt biển, còn nếu là để tưởng nhớ đến người lính Hoàng Sa không may xấu số thì cũng làm lễ khao lề nhưng để tế lính Hoàng Sa. Và thường cho cả hai, thế người còn sống và tế người đã chết.

Hàng năm vào ngày 20/2 âm lịch, tức trước ngày những người lính Hoàng Sa chuẩn bị xuống thuyền, các tộc họ trên đảo thực hành lễ khao lề thế lính, với ý nghĩa cầu mong cho người ra đi được bình yên trên dặm dài sóng nước. Lễ khao lề tế lính Hoàng Sa (=khao tế), hay khao lề thế lính Hoàng Sa (=khao quân) là việc của gia đình và tộc họ, cũng có khi là việc của làng (nhưng hiếm khi làng tổ chức, bởi làng cũng tế ở đình làng vào thời gian này, và trong tế đình có khấn mời đầy đủ các tên tuổi những người lính Hoàng Sa đã bỏ mạng trên biển). Tộc trưởng (hay chủ nhà) sẽ là người chủ bái trong khi hành lễ. Trưởng các chi phái sẽ là bồi tế. Ngày xưa, theo trí nhớ của những người cao tuổi, người đi lính Hoàng Sa sẽ đứng hầu thần suốt thời gian tế lễ. Ngoài các thành viên trong họ tộc, các gia đình, con cái, cháu chắt, những người đầu quân, trong tế lễ này phải có thầy phù thuỷ (thầy pháp). Thầy phù thuỷ với mũ tam sơn, khăn ấn, áo dài là người điều hành lễ tế.

Ngày 20 là ngày tế chính, nhưng cả tộc họ phải chuẩn bị mọi thứ lễ vật, phân công công việc cho các thành viên trong từng chi phái, từng gia đình trước đó nhiều ngày. Kinh phí thực hiện lễ từ nguồn đất hương hoả, hoặc ghe thuyền (ghe bầu, ghe buồm) của Ông Bà để lại mà con cháu canh tác hoặc sử dụng. Ngày nay, đất hương hoả lẫn ghe thuyền Ông Bà để lại cũng đã từ lâu không còn, nên các tộc họ phải quyên góp trên cơ sở tự nguyện. Từ ngày 17 lễ cúng tế đã được bắt đầu và dềnh dàng suốt 3 ngày, nhưng lễ vật chỉ có trầu rượu, hoa quả. Trong ba ngày mọi thứ lễ vật được tiếp tục chuẩn bị, như làm thuyền lễ và bài vị. Đến 3, 4 giờ chiều 19, chiêng trống gióng lên báo hiệu cho bà con họ tộc đến làm lễ yết. Trong lễ yết thày pháp bắt đầu tiến hành việc cúng tế ngoài sân. Đó là lúc thầy pháp nặn những hình nhân bằng bột gạo, hoặc bằng rơm rạ. 9 giờ tối người ta mổ heo gà. Đến nửa đêm, vào giờ chuyển ngày, lễ tế chính sẽ được kéo dài hàng vài tiếng đồng hồ sau đó.

Lế vật hiến trong nhàcho ông bà, tổ tiên và các thần linh độ mạng (nhà thờ họ) có heo, gà và những thứ xanh tươi khác, tuỳ điều kiện, và theo các bước từ sơ hiến, á hiến, chung hiến. Thầy pháp không tham dự lễ cúng này. Lế hiến tế ngoài sâncho những linh hồn đã chu du chín suối vì phải đi lính Hoàng Sa, Trường Sa theo lệnh vua, như câu " Hoàng Sa đi có về không/Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi", cho Thuỷ thần, các âm hồn, cho cả những người chết trôi sông, chết biển khác, ngoài những thứ như trầu, rượu, vàng mã, thịt heo, xôi chè bắt buộc phải có: 1 con gà, 1 con cá nướng, 1 con cua, 1 món gỏi cá nhắm. Đó là lệ bắt buộc, là thứ "xưa bày nay làm", không ai giải được vì sao phải cúng các vật phẩm như vậy. Bên cạnh các thứ phẩm vật đã nêu, trên đàn lễ còn có: muối, gạo, củi, mắm, nồi niêu...là những thứ mà lính Hoàng Sa phải mang theo trên thuyền (và cũng là những thứ người đi làm biển phải mang theo).

Đặc biệt trong lễ tục này còn có: các linh vị, thuyền lễ và các hình nộm. Các linh vịđược làm bằng giấy màu đỏ. Mỗi linh vị cao chừng 20 cm, rộng 7 cm, ở trên có danh tánh người lính Hoàng Sa trong tộc họ đã tử nạn. Trong tộc họ có bao nhiêu người tử nạn vì đi lính Hoàng Sa là có bấy nhiêu linh vị. Linh vị được dán trên bìa cứng, có nẹp gỗ hoặc tre phía sau, và được cắm trên đài chuối cây (cắt theo chiều ngang thân chuối). Người ta đặt các linh vị này trên dàn cúng. Phía trước mỗi linh vị có 1 cây nến thắp sáng. Khi thầy pháp khấn cầu Bà Thủy Long cùng các thuỷ thần trả linh hồn người chết về cho tổ tiên, các linh vị này sẽ được đốt ngay sau đó. Thuyền lễcũng có đế bằng chuối cây, là 3 cây chuối dài khoảng 1,5 - 2m, được xâu lại với nhau bằng các thanh tre (đóng bè). Trên đế bè người ta gắn con thuyền làm bằng tre và giấy ngũ sắc, có buồm, cờ, phướn, như thuyền buồm dùng để đi Hoàng Sa, Trường Sa. Chuẩn bị hiến lễ người ta đặt vào trong thuyền các đồ lễ: vàng mã, muối, gạo, nếp nổ, chè xôi, gỏi cá nhám, cua, cá nướng, đầu, chân, tiết, lòng gà, là những thứ được chia ra trên dàn cúng, và nhang đèn (ngày nay có người còn bỏ vào thuyền một ít đồng tiền lẻ vốn đang được sử dụng). Trong lễ khao lề thế línhngười ta chỉ làm 3 hoặc 4 hình nộm bằng bột gạo (sau này có khi được thay bằng rơm, hoặc bằng giấy). Các hình nhân không có đầu (?), phía trên đội nón gõ, áo kẹp nẹp. 4 hình nhân đặt ở 4 góc thuyền, với quan niệm làm vững con thuyền. Nhưng nếu chỉ có 3 hình nhân (đặt ở đầu, giữa, cuối mạn thuyền) là theo quan niệm "tam nhân đồng hành", và cũng theo cách hiểu là tổng lái, tổng mũi, tổng khoang (dù trong dịp cúng thế mạng này trong họ có đến nhiều hơn, hoặc ít hơn 3 người phải đi lính Hoàng Sa. Ngày nay không còn người đi lính Hoàng Sa như thời trước, vì thế lễ tục này không mang ý nghĩ thế mạng nữa, chỉ còn là lễ tế lính Hoàng Sa. Nhưng người địa phương vẫn gọi theo tên cũ). Sau khi thầy pháp cúng tế và làm các nghi thức bùa phép trước đàn thờ, " gửi tên tuổi và linh hồn" (người sống) và hình nhân (theo lễ thức trước đây), thày pháp đặt các hình nhân vào thuyền và lễ tiễn đưa bắt đầu. Đi đầu là những thanh niên mang cờ, phướn, tiếp theo là 4 thanh niên khiêng thuyền lễ, theo sau là thầy pháp, tộc trưởng, các chi phái trưởng, và đoàn người gồm bà con trong họ tộc, có cả những người trong làng, cùng đội chiêng trống. Ra đến bến thuyền, sau khi thầy pháp khấn vái thần linh bốn phương, thuyền lễ sẽ được thắp đèn rồi được thả xuống nước. Nếu nước cạn thì người ta sẽ dùng thuyền đưa thuyền lễ ra xa, rồi mới thả xuống biển. Kết thúc lễ tế (khoảng 3 giờ sáng ngày 20), thày pháp và những người lớn tuổi về lại nhà thờ họ bắt đầu công cuộc giao đãi.

4. Một vài nhận xét

Lễ thức trên đây xem ra có phần hơi ma mị, nhưng là lễ thức mạng tính nhân văn sâu sắc, là sự cầu mong cho người lính Hoàng Sa được bình yên trong suốt 6 tháng trời lênh đênh trên biển với bao hiểm nguy chờ đón (nếu với ý nghĩa lễ khao lề thế lính), bởi họ tin tưởng rằng những hình nộm kia đã gánh chịu cho người lính những rủi ro bất trắc, và thần linh cũng đã chứng kiến lòng thành; là sự tưởng nhớ và biết ơn đến các bậc sanh thành, những người có công khai khẩn đất đai, tạo lập nên làng mạc, và những người vì nhiều lẽ phải rời xa trần thế (nếu là chung cho cả hai).

Nhưng nếu chỉ nhìn như vậy thì không còn gì phải nói thêm. Qua khải sát, chúng tôi lại thấy: hình như có một điều gì đó phía sau lễ thức này, có lẽ có vài lớp "áo văn hoá" phủ bên ngoài làm cho lễ thức chuyển sang một nét nghĩa mới: cầu an cho người đi lính Hoàng Sa, tưởng nhớ các bậc anh linh đã bỏ mình vì Tổ quốc. Hãy thử so sánh lễ khao lề thế lính Hoàng Sa với lễ tục hình nhân thế mạng còn diễn ra trong lễ hội Rija Nưgar - lễ hội truyền thống đầu năm, là tết năm mới của người Chăm vùng Bình Thuận - Ninh Thuận, mà chúng tôi tách ra từ tư liệu của nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh.

Về thời gian diễn ra nghi lễ: Cả hai lễ thức này đều diễn ra vào mùa xuân. Tục hình nhân thế mạng (palaw salih) là một trong lễ thức của lễ hội Rija Nưgar - lễ hội đầu năm, lễ mừng năm mới - với ý nghĩa tống ôn, tống năm cũ, rước năm mới, diễn ra vào cuối tháng tư, đầu tháng năm dương lịch, tức tương đương với cuối tháng tư theo lịch Chăm, khi "sao Rua nở". Lễ thế lính Hoàng Sa cũng diễn ra vào mùa xuân (mà ở trên miêu tả là vào ngày 20 tháng 2 âm lịch). Nhưng theo nhiều người trên đảo Lý Sơn, trước đây lễ tục này tuỳ theo năm, tuỳ theo họ mà tế, nhưng cũng phải vào cuối tháng 2 âm lịch.

Mặt khác ở đây cũng còn thấy rằng, mặc dầu là cuộc tế lễ của người dân Lý Sơn dềnh dàng trong 3 ngày đầu, nhưng đó cũng chỉ là những ngày bước vào lễ. Lễ khao lề thực sự bắt đầu vào lức chiêng trống nổi lên báo hiệu lễ yếtvào buổi chiều ngày 19 (nếu là tế chính vào ngày 20), là lúc ông thày pháp bắt đầu vào cuộc, và những hình nhân lần lượt ra đời. Ngày hôm sau, là lễ tế chính với các nghi thức không mấy khác biệt với lễ thức hình nhân thế mạng với ý nghĩa tống ôn của người Chăm. Với người Chăm lễ tế ngày hôm sau gọi là "hôm ra". Vì thế có thể xem: hai lễ tục này diễn ra có sự tương đồng về thời gian, và diễn trình các lễ thức của hai nơi dường như có vẻ tương tự nhau.

Về lễ vật, phẩm vật: người Chăm tế thần trong nghi lễ làm hình nhân thế mạng (ngày trước) gồm: xôi, bánh đúc, trứng và hoa quả. Trong lễ chính phải có đủ số lượng: 9 đĩa xôi, 9 đĩa bánh đúc, 9 đĩa gạo nổ và các loại chuối, mía, trầu, cau, dừa. Trong lễ thế lính Hoàng Sa thì phải có: 1 con gà, 1 con cá nướng, 1 con cua, 1 món gỏi cá nhám, xôi, nếp nổ, vàng mã, trầu rượu...Như vậy lễ vật không giống nhau nhiều, nhất là các lễ vật phải có. Nhưng ở đây là các "con số biết nói", một bên là 9 (loại), một bên là 1 (loại). Hình như có một sự biểu đạt nào đó bằng con số mà chúng tôi chưa biết giải mã thế nào cho đúng.

Về các thành phần tham gia tế tự: Ngoài những người trong tộc họ tham gia tế tự như để chứng kiến lòng thành của họ đối với những người quá cố, trang trải được nỗi niềm âu lo về số phận của những người sắp phải một mất một còn, còn có một ông thầy pháp (thầy phù thuỷ), là người giao tiếp với thần linh, người truyền đạt tấm lòng thành của những thành viên trong tộc họ. Ông thầy pháp trong lễ tế lính Hoàng Sa cũng không khác mấy với ông bóng trong lễ hình nhân thế mạng của người Chăm. Những lời phù chú của ông thầy pháp trong lễ tế lính Hoàng Sa cũng không khác mấy với ông bóng trong lễ hình nhân thế mạng của người Chăm. Những lời phù chú của ông thầy pháp xa lạ với tiếng Việt, tựa như lời phù chú của ông bóng xa lạ với tiếng Chăm (bởi ông khấn tế bằng tiếng java. Cách khấn tế ấy thêm phần linh thiêng. Càng khó hiểu càng thiêng, là một định đề của văn hóa tín ngưỡng. Đó chính là phương cách mà nhiều thầy cúng thường làm. Cũng tựa như kiểu ông tư vãn phải xướng văn tế bằng tiếng Hán). Thầy phù thuỷ trong lễ tế Hoàng Sa đã "thổi linh hồn" vào hình nhân, tống tiễn hình nhân ra khơi xa để hình nhân gánh chịu mọi nỗi đau đớn cho người đang sống. Thầy bóng trong lễ cúng thế mạng của người Chăm làm cách ấy.

Về những hình nhân thế mạng: Những hình nhân trong lễ thế lẫn tế lính Hoàng Sa là tượng trưng cho lính Hoàng Sa. Sự xúi quẩy mà những người lính sẽ gặp trong bốn bề sóng nước thì các hình nhân này sẽ gánh chịu thay. Những xúi quẩy của cả cộng đồng làng Chăm trong tục palaw salih thì các salih sẽ gánh chịu thay cho họ. Có lẽ đây chỉ là một sự mở rộng hơn về đối tượng.

Các hình nhân thế mạng của cả 2 nơi đều được làm bằng bột gạo. Đó là sự gặp nhau kỳ diệu trong lễ thức giữa 2 nơi. Lễ của người Chăm có 4 hình nhân là hình hai nam, hai nữ, nếu là 3 thì một đàn ông, một đàn bà và một cô con gái. Lễ của người Việt ở Lý Sơn và vùng ven biển Quảng Ngãi cũng có lúc có 4 hình nhân (như 4 hình nhân người Chăm), nhưng cũng có lúc 3 hình nhân (nếu là 3 thì đó là từ quan niệm "tam nhân đồng hành" như đã nói). Nhưng dầu là 3, hay là 4 với những biểu tượng là chồng, là vợ, là con, là nam, là nữ, là đực, là cái...(của người Chăm) cũng chỉ là phiến đoạn của một lễ tục, bởi có âm có dương thì cũng là để giao hoà mà "đồng hành".

Mấy lời diễn giải cuối cùng:

Hiện nay trên đảo Lý Sơn còn diễn ra một tục lệ đặc biệt, đó là tục cúng việc lề vào tháng 2 âm lịch. Cúng việc lề là công việc của dòng họ, của cả làng. Không dòng họ nào, gia đình nào bỏ qua lễ thức này vào mùa xuân. Đó là tục lệ mà theo cư dân ở đây: là "khao lệ cầu an" (một cách gọi hết sức ước lệ) và là tống ôn, là cúng đất, là ngày lễ riêng của cư dân hải đảo, được tổ chức như cái tết thứ hai sau tết Nguyên Đán. Tất cả mọi lễ thức diễn ra tương tự như lễ tế lính Hoàng Sa, từ lễ vật, phẩm vật, thuyền tế, hình nhân, đến ông thầy cúng...Bởi vì, khi người ta cúng, việc tế thường kèm lễ tế lính Hoàng Sa (chỉ có thêm lời khấn vái lính Hoàng Sa), tức 2 lệ nhập làm một, chứ ít khi tổ chức lễ tế lính Hoàng Sa riêng như hiện nay.

Từ điều này cho phép được nhận định:

+ Lễ tục cúng khao lề thế lính Hoàng Sa là một nét văn hoá mới (xuất hiện khi đã có đội Hoàng Sa) của một lễ tục cúng tống ôn đầu năm(cũng tương tự như lệ cúng thanh minh của làng An Vĩnh tại Âm linh tự. Ngày nay Âm linh tự còn phối tế lính Hoàng Sa và những chiến sĩ trận vong (khác) vào ngày 15/3 âm lịch. Tại Âm lịch tự còn có đài chiến sĩ trận vong ở mặt tiền di tích). Mà lễ tục tống ôn cũng chỉ là lễ tục cổ nhằm cầu an, cầu mùa, cầu nước (qua con thuyền thả trôi trên biển).

+ Một lần nữa, từ những nhận xét trên, chúng tôi nghĩ rằng: Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là lễ tục vốn từ lễ tục hình nhân thế mạng của người Chăm, và lễ tục cúng việc lề là lễ tục bắt nguồn từ lễ mừng năm mới Rija Nưgar, mà người Việt tiếp nhận từ việc sống cộng cư với người Chăm, hoặc cũng có thể vốn là của người Chăm đã được Việt hoá(khi đã được Việt hoá thì tên gọi bằng tiếng Chăm: Rija Nưgar, hoặc Palaw Salih không còn, mà thay vào đó là tên gọi tiếng Việt: cúng việc lề/khao lệ cầu an và khao lề thế linh). Và nếu như lễ tục hình nhân thế mạng của người Chăm là một bộ phận của lễ hội mừng năm mới Rija Nưgar, thì lễ khao lề thế lính cũng vốn là một bộ phận của lễ tục cúng việc lề.

Như vậy, cái cốt lõi của hai lễ thức Chăm - Việt này là một, cùng một tiếng nói, nhưng chỉ khác nhau trong từng chi tiết.

Nói chung, dù tín ngưỡng khao lề thế lính Hoàng Sa, hay cúng việc lề (mà trong đó lễ khao lề thế lính là một bộ phận của nghi thức), có thể được phát triển trên cơ tầng của một lễ hội mừng năm mới của người Chăm, thì cái chính của tục lệ này vẫn là sự thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" của người Việt, rất nhân văn, cao cả. Và những gì thuộc về công trạng của đội Hoàng Sa năm xưa đã được ghi trên câu đối lưu truyền tại đình làng Lý Vĩnh, dù đình Lý Vĩnh nay không còn: Ân đức dựng xây miếu đảo Lý Nghĩa tình bối đắp dải Hoàng Sa.

Nguồn: Văn hiến Việt Nam, số 7(39), 2005, tr. 28-31

Xem Thêm

Yên Bái: Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà
Ngày 29/10, tại huyện Lục Yên, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp với Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, UBND huyện Lục Yên và Hội Khoa học Lịch sử tỉnh đã tổ chức hội thảo Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà phục vụ nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị và phát triển khu du lịch quốc gia hồ Thác Bà.
Hướng tới một ngành chăn nuôi an toàn, hiệu quả và bền vững
Ngày 18/10 tại thành phố Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Chăn nuôi Việt Nam và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề: Áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học và tuần hoàn nâng cao hiệu quả sản suất trong chăn nuôi trang trại nhỏ và hộ gia đình.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.