Làng nghề nông thôn trước thách thức môi trường
Tuy nhiên, hiện trạng sản xuất của một số làng nghề truyền thống còn bộc lộ nhiều yếu kém, phần lớn các làng nghề đều có mật độ dân cư đông đúc vì vậy thiếu mặt bằng sản xuất, các xưởng sản xuất thường xen kẽ với khu dân cư; khả năng kinh tế của nhiều làng, nhiều hộ còn yếu nên chưa có điều kiện trang bị hoặc sử dụng các công nghệ, máy móc mới... Đó là nguyên nhân môi trường làng nghề đang phải chịu ảnh hưởng của điều kiện sản xuất, các hoạt động dịch vụ và sinh hoạt. Những ảnh hưởng này đan xen nhau và được thể hiện qua chất lượng môi trường đất, nước, không khí và sức khỏe con người tại các làng nghề.
Đơn cử như các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, đây là một trong các loại hình làng nghề cổ xưa nhất VN với trên 300 làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm nằm rải rác trong cả nước, thường sản xuất theo quy mô hộ gia đình, phân tán và diễn ra một cách tự phát. Với tâm lý và thói quen là sản xuất nhỏ khép kín, không chịu đổi mới trang thiết bị nên tiêu tốn nhiều nguyên nhiên liệu, đồng thời thải trực tiếp ra môi trường một lượng chất thải lớn, đặc biệt là nước thải giàu chất hữu cơ, dễ phân hủy sinh học. Đối với môi trường không khí, nguồn gây ô nhiễm đặc trưng của làng nghề này là mùi hôi thối của nguyên vật liệu tồn đọng lâu ngày và sự phân hủy của các hợp chất hữu cơ trong chất thải rắn và nước thải từ cống rãnh, kênh mương. Quá trình phân giải yếm khí các chất hữu cơ sinh ra các khí độc ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân.Theo kết quả phân tích chất lượng môi trường tại các làng nghề chế biến tinh bột như Minh Khai, Dương Liễu, Cát Quế, huyện Hoài Đức, Hà Tây; Tứ Dân, huyện Khoái Châu, Hưng Yên... lượng nước thải sản xuất với số lượng rất lớn (khoảng 7.500m3/ngày), các chỉ tiêu BOD, COD, SS vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1 - 3 lần, nước thải đen ngòm, mùi hôi thối rất khó chịu.
Tại làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và gốm sứ, các tác động chủ yếu đến môi trường từ hoạt động sản xuất làng nghề là ô nhiễm không khí do bụi và khói lò nung, tiếng ồn do nổ mìn, tiếng máy khoan, đục, máy xay nghiền đá... đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân. Được biết, tại Đồng Tân, Thanh Hóa và Kiện Khê, Hà Nam , tỷ lệ người dân bị mắc bệnh nghề nghiệp chiếm 50%, phá hoại hoa màu không chỉ tại khu vực làng nghề mà còn ảnh hưởng sang các vùng lân cận. Ngoài ra, việc khai thác đất bừa bãi không theo quy hoạch còn gây thoái hóa đất, phá hủy thảm thực vật, tăng nguy cơ xói mòn và giảm độ phì nhiêu của đất.
Hiện nay, các làng nghề tái chế chất thải đang phát triển đã tạo ra một mạng lưới thu gom nguyên vật liệu, phế liệu và chất thải. Tuy số lượng các làng nghề này còn ít nhưng tỷ lệ cơ giới hóa cao chiếm từ 50 - 70%, một số tổ hợp ở các làng nghề có quy mô sản xuất lớn và thu hút nhiều lao động tại chỗ như: làng nghề tái chế nhựa Minh Khai, Hưng Yên; Dương Ổ, Bắc Ninh; làng nghề tái chế sắt Vân Chàng, Nam Định... Tuy nhiên, các làng nghề trù phú này cũng đang đứng trước nguy cơ rất đáng lo ngại. Do người sản xuất có tư tưởng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, bỏ qua các tác động xấu đến môi trường nên mọi người sống trong làng nghề này phải hứng chịu sự ô nhiễm của môi trường, nguồn nước và không khí. Và kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ mắc các bệnh nghề nghiệp tại các làng tái chế cao hơn các làng khác từ 15 - 25%, tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ em và phụ nữ thường cao hơn 30 - 45%, tuổi thọ trung bình ở các làng này chỉ đạt 55 - 65 tuổi.
Nguồn: monre.gov.vn








