Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 06/01/2009 16:31 (GMT+7)

Làm thế nào để “thương mại hóa” được sản phẩm nghiên cứu khoa học & phát triển công nghệ ở nước ta?

Trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ muốn thử đi sâu tìm hiểu xem nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên và làm thế nào để khắc phục được tình trạng đó?

1. Nguyên nhân nào dẫn đến việc chậm “thương mại hóa” kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong nước?

Tại Hội nghị tổng kết 10 năm họat động và phát triển của Hội khoa học kinh tế Việt Nam (1992 - 2002), Giáo sư Trần Phương - nguyên Phó Chủ tịch HĐBT - Chủ tịch Hội khoa học kinh tế Việt Nam, đã nói đại ý: “Thành công lớn nhất của Hội khoa học kinh tế Việt Nam trong 10 năm qua là đã tìm ra được cho mình một con đường đi duy nhất đúng là đã bán được sản phẩm của mình. Hay nói cách khác họat động khoa học và công nghệ muốn tồn tại và phát triển được thì phải tìm được người mua sản phẩm của mình. Có như vậy thì các nhà khoa học - công nghệ mới sống được. Và không những “sống được” mà còn “sống khỏe” và sống một cách “giàu có, sung sướng”. Đó là một kết luận đúng.

Lâu nay, không chỉ ở nước ta mà ngay cả nước đứng đầu phe XHCN như Liên Xô (cũ) cũng vậy, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã đẻ ra bao nhiêu hạn chế. Tính “bình quân chủ nghĩa và tư tưởng cào bằng” đã tạo ra một lớp người chủ yếu sống dựa dẫm, ỷ lại vào nhà nước và nhờ người khác lo hộ, nghĩ hộ. Chính vì thế, biết bao đề tài nghiên cứu khoa học hay dự án thử nghiệm ứng dụng KHCN làm xong nghiệm thu rồi đem “bỏ vào ngăn kéo”, còn nó có được ứng dụng hay không ai ứng dụng và đem lại lợi ích gì cho đất nước, cho xã hội thì không cần biết! Sau khi Liên Xô tan rã (1991) rất nhiều người trở nên giàu có một cách nhanh chóng nhờ biết “rút từ két sắt ra” những thành tựu và kết quả nghiên cứu khoa học của đất nước vĩ đại đem ra ứng dụng hoặc chuyển giao (cho nước ngoài).

Còn ở nước ta thì sao? Đội ngũ trí thức của nước ta cũng không phải là một “trường hợp ngoại lệ”

Một đất nước vốn giàu truyền thống cần cù và rất thông minh với hơn 1.400.000 người trí thức có trình độ từ đại học trở lên là một khối tài sản trí tuệ vô giá. Chúng ta cũng đã có rất nhiều đề tài, dự án mang tính khoa học, tính thực tiễn và tính khả thi cao nhưng không được áp dụng. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng tựu trung lại có mấy nguyên nhân chính sau đây:

Một là,như trên đã nói, do cơ chế chính sách của nhà nước chưa phù hợp, chưa tạo ra được đòn bẩy làm động lực thúc đẩy và nâng đỡ sự sáng tạo cho nên người làm nhiều, suy nghĩ nhiều chỉ mệt xác và thu nhập của họ cũng không được hơn người khác.

Có một hiện tượng nghịch lý là giá trị chất xám bị xã hội coi rẻ. Những người trí thức chân chính của nhà nước lúc bấy giờ thua “con phe” hay những kiểu làm ăn chụp giựt khác hoặc những người lao động chân tay giản đơn, nhưng biết dựa vào “kẽ hở” của cơ chế nhà nước để tranh thủ “đục khoét”. Điều này không những làm cho xã hội bị tiêu cực hóa mà dẫn đến thui chột động cơ sáng tạo khoa học của trí thức.

Hai làgần đây, khi mà sự hội nhập khu vực và quốc tế càng thuận lợi và rộng rãi thì nhiều người (trong đó có cả cơ quan quản lý nhà nước) cho rằng: nghiên cứu và ứng dụng KH-CN trong nước làm gì cho mệt xác và lâu công, tốt nhất là “nhập ngoại” mua của nước ngoài theo kiểu “chìa khóa trao tay” vừa nhanh, vừa tốt lại được “lại quả”. Đây là thực tế đáng buồn và là một trở lực khiến cho công nghệ và thành tựu khoa học của ta khó được tiếp nhận và ứng dụng. Các nhà đầu tư sản xuất của ta cũng không mấy mặn mà với kết quả của nghiên cứu KH-CN trong nước.

Ba làvề phía chủ quan của các nhà KHCN và các tạp chí KHCN trong nước cũng không phải là không đáng nói. Chúng ta chậm đổi mới, thiếu cố gắng và thiếu vốn (tiền). Như trên đã nói, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã đẻ ra cho xã hội noi chung, cho các nhà khoa học công nghệ nói riêng thói quen “bán cái mình có”, chứ chưa nghĩ được rằng cần phải “bán cái mà xã hội và người tiêu dùng cần”. Vì vậy, những vấn đề nghiên cứu và ứng dụng còn “xa” thực tế, chưa thiết thực và nếu ứng dụng thì hiệu quả kinh tế - xã hội chưa cao. Bên cạnh đó một trong những tồn tại yếu kém không kém phần quan trọng của các nhà KHCN và tạp chí KHCN của ta là “đói vốn”. Do đó, “đói cả tính cố gắng” và “máu liều” một phẩm chất rất cần có của nhà KHCN và người ứng dụng nó.

Về điểm này, cần nói thêm là: năm 2003, bản thân người viết bài này may mắn được đi một số nước Tây Âu và được biết thêm: năm 1943 khi mà chiến tranh thế giới thứ II còn 2 năm nữa mới kết thúc mà Tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là Roosevelt đã tiên lượng được rằng sau khi kết thúc chiến tranh sẽ có một số nhà khoa học - công nghệ tìm đến nước Mỹ. Vì vậy, ông lệnh cho Chính phủ Mỹ thành lập quỹ ủng hộ sáng tạo KHCN gọi là “vườn ươm KHCN” một lĩnh vực “đầu tư mạo hiểm”. Quỹ này ban đầu chỉ có 20 triệu USD nhưng đến năm 2003 nghe nói quỹ này đã lên tới 200 tỷ USD (gấp 10.000 lần sau 60 năm) chính vì vậy, nước Mỹ mới có NASA và bao nhiêu sự vượt bậc khác trong lĩnh vực KHCN so với thế giới.

Hay tương tự nước Pháp cũng vậy, dưới thời Tổng thống Mitterrand cũng cho lập quỹ này với số tiền ban đầu là 50 triệu Frăng (tương đương 10 triệu USD) đến năm 2003 (sau 16 năm phát triển) con số này đã lên đến 1 tỷ EURO (tương đương 1,5 tỷ USD). Thế mới biết: việc nhà nước nên trở thành “bà đỡ” cho sự phát triển KHCN của một quốc gia quan trọng và cần thiết biết chừng nào!

Bốn làthói quen và tập quán của nhà đầu tư, nhà sản xuất và người tiêu dùng trong nước cũng là yếu tố quan trọng góp phần vào phát triển KH-CN. Về điểm này, ở Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung, thường hay có thói quen “vọng ngoại” và “bụt chùa nhà không thiêng”. Vì đi từ nền kinh tế nghèo nàn lên nên họ ngại “phải làm lại” hay “trả giá” khi dám ứng dụng cái mới. Điều này giải thích vì sao cùng một công nghệ hay thiết bị tương tự nhưng các nhà đầu tư và người tiêu dùng thường chọn “của ngoại”. Đây cũng là một trở ngại lớn. Nhưng trở ngại này không phải không cải thiện được nếu như các nhà KHCN của ta biết kiên trì thuyết phục bằng thực nghiệm mô hình và giám đầu tư (dĩ nhiên cần có sự hỗ trợ của nhà nước). Vậy, làm thế nào để đẩy mạnh việc “thương mại hóa” kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

2. Để “thương mại hóa” các kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ cần tập trung giải quyết những vấn đề trọng tâm chủ yếu sau đây:

a) Trước hết, đối với các nhà KH-CN

C. Mác - nhà tư tưởng vĩ đại của thế kỷ 19 - có nói đại ý: Vinh dự lớn nhất của các nhà khoa học là được phục vụ đại đa số người dân lao động.

Nhà KHCN thời nay phải “bắt mạch” đúng yêu cầu và nhu cầu của nhà đầu tư và người tiêu dùng, nghĩa là phải biết họ “cần cái gì” và cần cái đó như thế nào để ta nghiên cứu và làm ra sản phẩm đó phục vụ họ. Điều này càng đúng hơn vì sao “kỹ sư Hai lúa” được hoan nghênh và đón đợi? Bởi vì những sản phẩm mà họ nghiên cứu và chế tạo ra hết sức cần thiết cho cuộc sống thường nhật của người nông dân như “máy bóc hạt điều”, “máy tẽ hạt ngô”, “máy gặt”, “máy cắt cỏ” và “máy tuốt lúa”… Bên cạnh những nghiên cứu vĩ mô, cao cấp và mới cũng rất cần những nghiên cứu thực tế với phương châm và quy mô từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, đặc biệt phải phù hợp với tập quán, thói quen và trình độ của người ứng dụng và sử dụng nó, đồng thời phải hợp với túi tiền của nhà đầu tư và người tiêu dùng nữa). Có như thế, thành quả của việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới “zô” được trong dân. Hay nói cách khác người tiêu dùng và xã hội mới chấp nhận trả tiền cho nhà KHCN. Từ đó, nhà KHCN mới trụ được trong cơ chế thị trường và sự hòa nhập như hiện nay.

b) Thứ hai, về phía nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền

Về điểm này, cần phải thừa nhận rằng, những năm gần đây, Chính phủ, mà người đại diện là Bộ Khoa học và Công nghệ đã có nhiều chủ trương sáng tạo và kịp thời, hướng tới quyền lợi của nhà KHCN và người tiêu dùng. Và trên thực tế môi trường hoạt động KHCN đã được cải thiện và thu được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, ở từng nơi, từng lúc, từng lĩnh vực cần rõ ràng, dứt khoát hơn và đặc biệt rất cần sự ổn định tương đối dài lâu cho một chủ trương, chính sách về KHCN để nhà nghiên cứu khoa học phát triển công nghệ và người ứng dụng tránh phải “chạy theo” hoặc hụt hẫng bởi sự thay đổi liên tục của các chủ trương chính sách? Đồng thời cũng cần có quan niệm rộng mở trong vấn đề “bao cấp” cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học, nhất là tìm công nghệ mới, tìm tòi cái mới, vì ở đây không chỉ rất cần sự thông minh, nhạy cảm mà còn cần có sự “phiêu lưu”, “mạo hiểm”.

Chúng ta không so bì với Mỹ, với Pháp nhưng các cơ quan nhà nước cần tham mưu và đề xuất với Chính phủ nên sớm có quỹ “vườn ươm” cho những ý tưởng sáng tạo mới. Và không nên tiếc tiền với công việc này. Tuy nhiên mình là “bà đỡ nông thôn” “bà đỡ vườn” cho nên không thể “muốn gì được nấy”. Nhưng ít ra cũng đủ để bù đắp những chi phí mà nhà KHCN đã bỏ ra. Vì vậy nên chăng, chúng ta cũng cần nhanh chóng có quỹ “đầu tư cho vườn ươm sáng tạo KH&CN” thuộc lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Và nếu được, quỹ này do đích danh Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng KH&CN điều hành với ít nhất khởi đầu có khoảng 50 triệu USD ( » 800 tỷ VNĐ). Rồi từ đấy khi các sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ được “xuất khẩu” (trong và ngoài nước) đem ứng dụng, Nhà nước sẽ thu hồi với 1 tỷ lệ phần trăm nhất định để làm cho quỹ này được nhân lên hàng trăm triệu đô la. Có như thế mới làm cho “dân trí” phát, mà khi “dân trí” đã phát thì “nhân lực” và “vật lực” mới phát lên được.

3. Kết luận và kiến nghị

Vấn đề còn lại là thị trường ứng dụng và tiếp nhận KH-CN. Học người xưa những điều tốt thì ta nên học và không bao giờ cũ cả. Trước đây, chúng ta đã có những phong trào “dùng hàng nội hóa” đó là một chủ trương đúng và hay. Vì “dùng hàng nội hóa” sẽ được mấy cái lợi. Một làgiải quyết công ăn việc làm theo cấp số nhân. Hai làgiảm được cước phí vận chuyển. Ba làgiảm được các chi phí khác như thuế quan, phí giao dịch…, mỗi năm nếu tiết kiệm được thì con số này chiếm khoảng 20 - 25% GDP.

Vì vậy, như trên đã phân tích, bên cạnh cố gắng của các Nhà KH&CN, nhà nước rất cần có những chính sách cụ thể như giảm thuế cho những nhà đầu tư ứng dụng công nghệ trong nước, do đó, giá thành sẽ rẻ hơn - và người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ sản phẩm cùng loại, nhưng giá rẻ hơn so với giá nhập ngoại. Khi dùng lâu và thường xuyên thì sẽ thành quen, giống như dân ta bây giờ thích hàng Việt Nam chất lượng caohơn là “ hàngTàu”.

Đồng thời có như vậy, đến lượt mình các nhà KHCN sẽ có một sự cạnh tranh ngấm ngầm và dĩ nhiên chỉ có thể phải làm tốt hơn mà thôi mới bán được “hàng” (hàng ở đây là thiết bị và công nghệ do chính mình nghiên cứu và chế tạo).

Cuối cùng là khâu tuyên truyền, quảng cáo và maketing. Nhà nước cần đưa vào chủ trương chính sách về vấn đề này một cách bài bản, liên tục và phải xem đây là một quốc sách.

Nếu làm được như trên, chắc chắn chúng ta sẽ sớm “thị trường hóa” được sản phẩm nghiên cứu KHCN. Làm cho kinh tế tri thức phát triển và từ đó thúc đẩy sự phát triển của mọi mặt đời sống xã hội./.

Xem Thêm

Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

An Giang: 25 giải pháp của Hội thi Sáng tạo kỹ thuật được vinh danh
Ngày 14&15/6, tại TP. Long Xuyên, Hội đồng Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh lần thứ XIV (năm 2024–2025) đã tổ chức chấm chọn vòng chung khảo với sự tham gia của các chuyên gia đến từ các sở, ban, ngành cấp tỉnh, doanh nghiệp, giảng viên Trường Đại học An Giang, Trường Cao đẳng Nghề An Giang cùng các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Đồng Tháp: Lan tỏa tinh thần sáng tạo trong Thanh Thiếu niên, Nhi đồng
Sáng ngày 16/6, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh Thiếu niên, Nhi đồng tỉnh đã tổ chức Lễ Tổng kết và Trao giải Cuộc thi lần thứ 18, năm 2025. Tham dự có Thường trực Ban Tổ chức Cuộc thi; đại diện lãnh đạo các sở ngành Tỉnh, UBND các huyện, thành phố; quý thầy cô giáo và các học học sinh.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.