Kinh tế xã hội Thuỵ Điển từ góc nhìn học giả Trung Hoa
Đất nước nhỏ nhưng thể hiện một xã hội hài hoà
Là một nước thưa dân; đi lên từ nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn, Thuỵ Điển sớm trở nên giầu có, công bằng và ổn định. Thành công phát triển kinh tế xã hội của quốc gia Bắc Âu nhỏ bé này đã để lại những kinh nghiệm quý giá đối với nhiều nước trong xu thế hội nhập toàn cầu. Học giả người Anh Lommel từng đánh giá: “ Thuỵ Điển là nước khác thường bởi quốc gia này có mức sống rất cao, phúc lợi phát triển; thị trường ổn định, hài hoà; chính sách hoà bình, thống nhất và thoả hiệp; một đất nước đẹp như bài thơ đồng quê êm đềm và dịu ngọt...”
So với bình quân chung thế gới, sản xuất công nghiệp tính theo đầu người của Thuỵ Điển cao gấp 4 lần (riêng ngành cơ khí gấp 14 lần).Giá trị xuất khẩu chiếm 35% GDP, song kim ngạch bình quân đầu người lại cao gấp 9 lần bình quân toàn thế giới. Trên lĩnh vực công nghiệp, 92% doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là của tư nhân; các lĩnh vực cơ bản như giao thông, bưu điện, năng lượng khai khoáng, luyện thép, đóng tầu ...đều do các ngành công cộng quản lý. Y tế, giáo dục là những ngành dịch vụ không có nghĩa vụ tìm kiếm lợi nhuận; không có trường học và bệnh viện tư nhân.
Cơ sở của sản xuất nông nghiệp là 11 vạn nông trại gia đình với 1,2 vạn lao động làm thuế; gánh nặng sản xuất đăt lên vai các chủ trang trại và những thành viên trong gia đình. Khoảng 3,8% dân số Thuỵ Điển sản xuất nông nghiệp; nhưng số người gia công, bảo quản và chế biến nông sản lại cao gấp 3 lần số trực tiếp làm nông nghiệp. Với tổng sản phẩm tạo ra, nguồn lương thực thực phẩm sau khi đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa còn xuất khẩu từ 30% đến 50%.
Đội ngũ giai cấp công nhân Thuỵ Điển những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3 có trên 4,2 triệu người chiếm trên 40% dân số cả nước. Trong số này, 3 triệu là công nhân công nghiệp, 90% lao động chân tay tham gia liên minh công đoàn với khoảng 2,5 triệu đoàn viên. Ngoài ra, 70 vạn nhân viên “cổ trắng”đã tham gia vào tổ chức nhân viên toàn quốc.
Trong ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn, Thuỵ Điển tổ chức nhiều loại hình hợp tác xã phục vụ trang trại gia đình về giống, lâm nghiệp, sản phẩm sữa... Số đông nông dân hoạt động trong các tổ chức Liên minh chủ trang trại. Nhà nước và Liên minh chủ nông trại cùng bàn bạc những vấn đề quan trọng về giá nông sản, chính sách trợ giá, tín dụng, thuế và thực hiện quan hệ hợp đồng....Khi cần nâng cao lợi nhuận sản xuất hoặc giảm chi phí cho người tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước can thiệp vào việc hình thành giá cả thông qua ngân sách tài trợ quốc gia.
Với GDP bình quân đầu người đạt được khá cao (trên 25.400 USD từ năm 2002), nhà nước Thuỵ Điển đã thiết lập một chế độ phúc lợi toàn dân. Mỗi công dân từ lúc lọt lòng đến 16 tuổi đều được hưởng trợ cấp vị thành niên của Chính phủ; ốm đau được y tế bảo hiểm; đi học từ bậc giáo dục nghĩa vụ 9 năm đến đại học không phải trả tiền; khi trưởng thành, đi làm được vào hệ thống bảo hiểm xã hội; lúc tuổi già được dưỡng lão theo chế độ xã hội cho đến cuối đời.
Là một nước có khoảng cách giầu nghèo thấp nhất toàn cầu, Thuỵ Điển đã áp dụng chế độ thuế luỹ tiến siêu ngạch đối với thu nhập. Mặc dù mức chênh lệch giữa 10% số dân có mức thu nhập cao nhất với 60% có mức thu nhập thấp nhất đến 114 lần; song bằng đòn bẩy cân bằng của Chính phủ, khoảng cách thu nhập tuyệt đối sau thuế chỉ còn 3 lần. Với giải pháp thực hiện, người thu nhập càng cao chịu thuế càng nặng; thu nhập thấp chịu thuế nhẹ, thậm chí thấp hơn nhiều lần phúc lợi mà người nghèo được hưởng. Với chính sách này, mọi thành viên trong xã hội đều có cuộc sống ổn định, tránh được những bất công do khoảng cách giầu nghèo quá lớn gây ra. Thuỵ Điển đã giải quyết có hiệu quả xung đột, mọi thành viên trong xã hội đều có cơ hội sống sung túc, hài hoà; Nhà nước liêm khiết và đã trở thành một quốc gia có tỷ lệ tội phạm thấp nhất toàn cầu.
Chính phủ Thuỵ Điển được xếp là một trong những Chính phủ liêm khiết nhất thế giới; hơn 35 năm qua không có quan chức tham ô, ăn hối lộ. Nhấn mạnh đến công bằng xã hội trong xây dựng đất nước, quan chức Thuỵ Điển không có đặc quyền, đặc lợi; Thủ tướng Chính phủ sống trong khu dân cư, lúc thường không có bảo vệ; đi, về nhà ở không tuỳ tùng; trong nhà không có cần vụ; đi làm bằng phương tiện công cộng hoặc tự lái xe riêng, không được sử dụng xe công trừ khi thực hiện công vụ nhà nước.
Xã hội dân chủ từ góc nhìn của giới phân tích Trung Hoa
Kế thừa lý luận dân chủ mới, học hỏi kinh nghiệm xây dựng xã hội dân chủ ở nhiều quốc gia; Trung Quốc khá thành công trong phát triển kinh tế xã hội cả về lý luận và thực tiễn, đã tạo được những bước tiến thần kỳ từ sau cải cách mở cửa. Phân tích bài học từ mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ Thuỵ Diển, Tân Tử Lăng, một nhà nghiên cứu cao cấp Trung Quốc cho rằng: Thuỵ Điển đã qua một chặng đường dài phát triển tập trung chủ yếu vào giải quyết những vấn đề công bằng và hiệu suất thông qua sở hữu tư liệu sản xuất
Trong tuyên ngôn tại thành phố Phidalenphi nước Mỹ năm 1965, đại diện các nhà tư bản nêu rõ “Tiếp thu kinh nghiệm nhân dân làm chủ của chủ nghĩa xã hội, thực hiện chủ nghĩa tư bản nhân dân theo chế độ cổ phần; tiếp thu kinh nghiệm chế độ phúc lợi xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa tư bản phúc lợi suốt đời; tiếp thu kinh nghiệm kinh tế kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa tư bản kế hoạch có sự can thiệp của nhà nước “ (Tân tử Lăng 2009).
Thực hiện chủ nghĩa tư bản nhân dân theo chế độ cổ phần, Thuỵ Điển đã tìm cách để công nhân nắm cổ phần xí nghiệp và trở thành người hữu sản. Luật Quỹ đầu tư của người làm thuêđã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 1tháng1năm1984 quy định: Giới chủ phải trích 20% lợi nhuận siêu ngạch lập quỹ của công nhân viên và tăng quỹ dưỡng lão nộp thay công nhân thêm 1%.Với quy định này, một phần lợi nhuận từ nhà tư bản được chuyển sang công nhân để đầu tư vào sản xuất. Trong vòng 3 năm (1984-1986), quỹ đầu tư của người làm thuê đã thu nhận được trên 5,56 tỷ cuaron. Theo tính toán của các chuyên gia, chỉ cần lãi suất của các doanh nghiệp từ 10% đến 15% thì ngân khoản của quỹ này trong vòng 30 năm có thể chiếm đến một nửa số cổ phần của các xí nghiệp.
Theo Tân Tử Lăng, từ thế kỷXX, ở một số nước Bắc Âu (Thuỵ Điển, Na Uy) và Tây Âu (Đức, Anh, Pháp) đã lần lượt xuất hiện sự điều hoà giữa chủ và thợ, thoả hiệp thay thế sự đối lập; một số nơi dùng xây dựng công để giải quyết vấn đề thất nghiệp. Con đường phát triển này có thể mở ra triển vọng của kinh tế thị trường kết hợp với trách nhiệm xã hội để tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm đầy đủ và ổn định lâu dài Thông qua phát triển sức mạnh sản xuất và điều tiết phân phối, xã hội đã dần xoá bỏ chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa công nhân và nông dân, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tạo niềm tin về chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Tổng kết kinh nghiệm cầm quyền nhiều năm, Đảng Dân chủ Xã hội Thuỵ Điển cho rằng, không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình trạng hiệu suất sản xuất thấp, của cải xã hội suy giảm. Then chốt của chủ nghĩa xã hội, mấu chốt để thực hiện công bằng xã hội không phải là chế độ sở hữu mà là phương thức phân phối. Chế độ sở hữu công nhân có cổ phần, các cổ đông lớn và nhỏ cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất đã khuyến khích xí nghiệp tạo ra nhiều của cải cùng với phân phối của cải được xã hội hoá, do chính quyền thực hiện, công đoàn giám sát, đã mang lại những thay đổi to lớn trong đời sống..Thông qua luật định và chính sách thuế; nhà nước Thuỵ Điển đã điều chỉnh việc phân phối một phần lợi nhuận cho nhóm người yếu kém, thu hẹp khoảng cách giầu nghèo và việc xây dựng nhà nước phúc lợi đã trở thành cương lĩnh của Đảng cầm quyền. Theo đó, Luật cùng giải quyết đời sống lao độngcó hiệu lực từ năm 1976 đã nâng vị trí của công nhân trong xí nghiệp lên rất cao. Luật này quy định, tổ chức công đoàn có quyền tham gia vào những vấn đề trước đây phía chủ quyết định như chiến lược đầu tư, sản xuất.. Chủ xí nghiệp phải thương lượng với công đoàn trước khi quyết định những thay đổi lớn trong kinh doanh và quyết định điều kiện làm việc của người lao động; công đoàn có quyền xem xét sổ sách và các văn kiện liên quan đến quản lý kinh doanh của xí nghiệp
Vượt lên những tranh luận kéo dài hàng trăm năm về ý thức hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản; có thể thấy xã hội dân chủ Thuỵ Điển đã tập hợp được những ưu điểm của CNXH và CNTB, đồng thời loại bỏ khuyết tật của mỗi bên; quan tâm đến công bằng và hiệu suất được coi là biện pháp và là con đường hiệu quả để thực thi chính sách trong đời sống xã hội. Ở khía cạnh khác, nhà sử học Mỹ W.Dulan cho rằng “ mối lo sợ về chủ nghĩa tư bản khiến chủ nghĩa xã hội nới lỏng tự do và mối lo ngại về chủ nghĩa xã hội cũng khiến chủ nghĩa tư bản phải tăng thêm bình đẳng” . Không phải chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản, cũng không phải chủ nghĩa tư bản thay thế chủ nghĩa xã hội mà đó là sự kết hợp, dung hoà từ cả hai phía. Con đường của chủ nghĩa xã hội dân chủ, theo giới phân tích Trung Hoa, dường như đang được nhiều nước vận dụng để đưa nhân loại vào kỷ nguyên phát triển hài hoà.








