Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 06/12/2010 17:55 (GMT+7)

Kinh tế tri thức và thực hiện phát triển kinh tế tri thức ở nước ta

I. Nhận thức lý luận về kinh tế tri thức

Hiện nay, thông qua toàn cầu hóa kinh tế, kinh tế tri thức đang lan tỏa mạnh. Thực tiến ấy giúp chúng ta nhận thức đúng hơn về bản chất, cấu trúc và hình thức vận động của kinh tế tri thức.

1. Để có nhận thức lý luận về kinh tế tri thức một cách đúng đắn, cần phải bắt đầu từ phương pháp luận khoa học, nhất là đối với Việt Nam – một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế tri thức là xu hướng tất yếucủa quá trình phát triển kinh tế thị trường mấy trăm năm qua. Bản chất của kinh tế thị trường là xã hội hóa lao động và sản xuấtngày càng sâu sắc cả về chiều rộng và chiều sâu, mà giai đoạn lịch sử đầu gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Sau cuộc cách mạng kỹ thuật thế kỷ XVII, nền kinh tế thị trường hiện đạiphát triển đầy biến động và nhanh dần, nó để lại đằng sau những gì là lỗi thời về cơ sở kỹ thuật, về quan hệ kinh tế, xã hội và thể chế chính trị, Đồng thời, nó cũng luôn phát hiện ra những lực lượng sản xuất mới, những quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị mới để không ngừng phát triển. Do đó, kinh tế thị trường không ngừng mở rộng không gian sản xuất và trao đổi, từ phạm vị vùng, miền ra phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu.

Trong thực tiễn, bản chất kinh tế thị trường luôn gắn liền với hình thái lịch sử về quan hệ sản xuất và thể chế chính trị. Chỉ có quan niệm duy vật lịch sử mới giúp ta nhận thức đúng cơ sở chungcủa kinh tế thị trường ở các giai đoạn khác nhau. C. Mác đã từng chỉ rõ về phương pháp luận: Nếu người ta trút bỏ tính chất đặc trưng tư bản chủ nghĩa của tiền công, cũng như của giá trị thặng dư, của lao động cần thiết cũng như của lao động thặng dư, thì tất cả hình thái biến mất và chỉ còn lại là cơ sởcủa chúng, những cơ sở này là chung cho tất cả mọi phương thức sản xuất xã hội. Đây là căn cứ để chúng ta nhận thức đúng về kinh tế thị trường và giai đoạn cao là kinh tế tri thức. Chỉ có nắm chắc những cơ sở chung mới có khả năng vận dụng vào thực tiễn có hiệu quả.

Thực tiễn cho thấy: Không nhận thức đúng kinh tế thị trường thì khó nhận thức đúng kinh tế tri thức, càng không thể vận dụng kinh tế tri thức.

2. Xu hướng phát triển lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu đi đến ra đời kinh tế tri thức

Thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại khoảng 300 năm qua cho thấy, sức sống và trình độ phát triển lực lượng sản xuất hiện đại đều bắt nguồn từ trình độ xã hội hóa, tạo ra mối quan hệ giữa các nguồn lực xã hội với các nhu cầu xã hội. Bởi vì, khi sản xuất và tiêu dùng ngày càng có tính chất xã hộithì sẽ đánh thứcmọi tiềm năng về vật chất và trí tuệ của xã hội vào phát triển kinh tế thị trường. Mức độ khai thác các tiềm năng vật chấtcủa xã hội thể hiện rõ ở quy mô phát triển của lực lượng sản xuất, còn mức độ huy động và sử dụng tốt các tiềm năng trí tuệcủa xã hội là chỉ số về chất lượng và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Do tương tác thường xuyên giữa các nguồn lực xã hội với nhu cầu xã hội nên lực lượng sản xuất hiện đại luôn phát triển.

Sự vận động của lực lượng sản xuất trong kinh tế thị trường cho thấy mức độ huy động và sử dụng tiềm năng trí tuệcủa xã hội có ý nghĩa quyết địnhmức độ khai thác và hiệu quả của tiềm năng vật chất của xã hội. Vì vậy, trong các nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện có hai xu hướng phát triển khác nhau:

Một là, những nền kinh tế thị trường dựa chủ yếu vào huy động và sử dụng tiềm năng trí tuệ của quốc gia và thế giới. Đây là những nước hiện nay đã bước vào giai đoạn kinh tế tri thức.

Hai là, những nền kinh tế thị trường chủ yếu dựa vào khai thác tiềm năng vật chất (về tài nguyên và lao động giản đơn). Đây là những nước đang phát triển và kém phát triển, thường thiệt nhiều trong cạnh tranh thị trường, có nhiều nguy cơ là “bãi rác” của các nước phát triển trong hợp tác đầu tư nước ngoài.

3. Vai trò ngày càng tăng của lao động tri thức là cơ sở chung của tiến trình từ giai đoạn kinh tế công nghiệp lên giai đoạn kinh tế tri thức

Lực lượng sản xuất hiện đại bao gồm hai bộ phận: Cơ sở vật chất – kỹ thuật và lực lượng lao động sản xuất và tổ chức quản lý kinh doanh. Lịch sử phát triển kinh tế thị trường hiện đại luôn gắn liền với lịch sử diễn ra các cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật. Cuộc cách mạng đầu tiên (thế kỷ XVII, XVIII) đã xác lập cơ sở kỹ thuật cơ khí, hình thành lực lượng lao động cơ khí và tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật thứ hai (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) đã nâng cơ sở kỹ thuật cơ khí lên trình độ nửa tự động hóa và hình thành hệ thống tổ chức quản lý mới, dưới hình thức các tập đoàn,đưa chủ nghĩa tư bản lên giai đoạn độc quyền, bắt đầu ở nước Đức. Kinh tế thị trường với các tập đoàn tư bản đã phát triển ở cả phạm vi khu vực và thế giới. Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật, trong lực lượng lao động và tổ chức quản lý kinh tế thị trường, bắt đầu hình thành kinh tế tri thức.

Nhìn từ chiều sâu của tiến trình lịch sử phát triển nói trên, người ta thấy rõ vai trò ngày càng tăng của lao động tri thức. Cùng với quá trình hình thành cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền kinh tế tri thức là sự hình thành lực lượng lao động mới, được gọi là lao động tri thứcvừa có tính chất chuyên nghiệp, vừa có tính chất liên ngành, tiêu biểu cho giai đoạn “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”.

Hiện nay, cơ sở vật chất – kỹ thuật mới và cơ cấu lao động xã hội mới của nền kinh tế tri thức vẫn còn vận động trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Nhưng xét về tiến trình lịch sử, cơ sở kinh tế - xã hội ấy không phải là cơ sở của chủ nghĩa tư bản, mà của một xã hội hậu tư bản đang lớn mạnh trong lòng chủ nghĩa tư bản. Các cuộc khủng hoảng từ nay trở đi không chỉ là khủng hoảng kinh tế - tài chính, mà thực chất là khủng hoảng thế chế kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa.

4. Sự phát triển tự do của mỗi người

Trong kinh tế thị trường, quá trình xã hội hóa lao động và sản xuất cùng với sự cạnh tranh đã tạo ra khả năng phát triểncủa các tập thể và các cá nhân. Đây là một ưu thế của kinh tế thị trường mà các hình thái kinh tế khác không có.

Nhưng khả năng phát triển của tập thể và cá nhân chỉ bộc lộ dần dần theo các nấc thang phát triển của kinh tế thị trường. Khả năng và giới hạn phát triển này dựa trên cơ sở kinh tếcủa nó là quy mô giá trị gia tăngđủ lớn và sự phân phốiphù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường. Sự ra đời của các công ty cổ phần một cách phổ biến từ nửa cuối thế kỷ XX chỉ rõ điều đó. Trong công ty cổ phần, số công nhân trở thành cổ đông ngày càng tăng (hiện nay nhiều người dân ngoài công ty cũng trở thành cố đông). Cùng với sự phát triển của công ty cổ phần còn có quỹ đầu tư phát triển ngày càng lớn. Đây là số vốn không chia,nên hình thành sở hữu tập thểhay sở hữu xã hội. Như vậy, kinh tế thị trường ở giai đoạn công ty cổ phần đã làm biến đổi sâu sắc sở hữu tư bản, do sự hình thành sở hữu cá nhân của người lao động và sở hữu tập thể.

Xu thế hình thành cơ sở kinh tế cho sự phát triển tự do của mỗi người và của cộng đồng nói trên đạt được chất lượng mới trong nền kinh tế tri thức, do những ưu thế của kinh tế tri thức đem lại như: Kinh tế tri thức đạt được năng suất lao động cao chưa từng có, thúc đẩy sự tăng nhanh sở hữu cá nhân và sở hữu xã hội. Người lao động không chỉ được bảo đảm đời sống vật chất, mà còn có thời gian rỗi để hưởng thụ văn hóa và góp phần xây dựng nền văn hóa mới, thể hiện cụ thể “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (C.Mác). Còn theo quan sát của Anhxtanh (nhà khoa học hàng dầu của thế kỷ XX), “chỉ cá nhân đơn lẻ mới có thể tư duy và qua đó, tạo ra những giá trị mới cho xã hội… cũng như vậy, một cá thế đơn lẻ sẽ không thể phát triển nếu thiếu mảnh đất dinh dưỡng của cộng đồng” (1). Tiềm năng, ưu việt của kinh tế tri thức còn thể hiện ở xu hướng mới của phát triển khoa học có tính chất liên ngành, đặc biệt xu hướng thâm nhập vào nhau của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội (về tri thức, phương pháp, cách sử dụng thành tựu khoa học) hướng vào hình thành mối quan hệ hài hòa giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên. Dự báo của C.Mác về sự hình thành “khoa học về con người” thì phải đến thời đại kinh tế tri thức mới thành hiện thực. Sự phát triển kinh tế tri thức đến trình độ nào đó sẽ làm thay đổi phương thức lao động và sản xuất, phương thức tiêu dùng và lối sống của xã hội trong nền văn minh mới.

5. Sự phát triển kinh tế thị trường theo định hướng mới.

Nét đặc biệt trong thời đại hiện nay là cùng với quá trình phát triển kinh tế tri thức đã xuất hiện định hướng mớicủa nền kinh tế thị trường là phát triển bền vữngngày càng bộc lộ và tạo thành một sức ép toàn cầu. Sự xuất hiện định hướng mới của phát triển kinh tế thị trường là do những tất yếu khách quan sau đây:

Một là, suốt chiều dài lịch sử chủ nghĩa ta bản, mục tiêu phát triển kinh tế chỉ vì lợi nhuận của chủ đầu tư, coi thường những vấn đề xã hội và môi trường. Cuối thế kỷ XX, tác động của những vấn đề xã hội, môi trường đã đến mức cản trở phát triển kinh tế và uy hiếp sự sống còn của loài người, kể cả chủ nghĩa tư bản. Tình hình đó đặt ra vấn đề thay đổi định hướng phát triển kinh tế, bảo đảm sự phát triển đồng thuận giữa kinh tế với xã hội và môi trường

Hai là, sự phát triển của kinh tế tri thức đã tạo ra khả năng thay đổi định hướng kinh tế thị trường. Bản thân kinh tế tri thức phải hướng thẳng vào mục tiêu phát triển bền vững ấy, nếu không, những thành tựu của kinh tế tri thức sẽ trở thành sức tàn phá, hủy diệt loài người khi nó rơi vào tay những lực lượng chống lại loài người. Cảm nhận được điều này, nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới đã chỉ ra rằng: ở thời đại chúng ta, các đại diện của giới chính trị, khoa học và công nghệ phải chịu trách nhiệm đạo lý đặc biệt lớn.

Tác động của xu thế phát triển bền vững đang đặt ra một vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu là thay đổi mô hình kinh tế, đặc biệt là các mô hình kinh tế thị trường tự do và mô hình công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và lao động rẻ. Sự thay đổi này đòi hỏi một tầm nhìn thời đại mới, có ý nghĩa quyết định với nước đang phát triển.

6. Phát triển theo con đường rút ngắn trở thành quy luật của các nước phát triển sau

Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật lần thứ hai vào đầu thế kỷ XX, đưa nền kinh tế công nghiệp lên trình độ nửa tự động hóa, đưa trình độ tổ chức, quản lý kinh tế lên trình độ tập đoàn kinh tế (tư bản chủ nghĩa). Từ đó bắt đầu xuất hiện khả năng phát triển theo con đường rút ngắn đối với các nước lạc hậu. Nếu quá trình công nghiệp hóa lần đầu tiên ở nước Anh phải mất hơn một trăm năm thì mấy nước được gọi là “những con rồng” ở Châu Á chỉ mất khoảng 30 năm. Thời gian để tăng GDP/ đầu người lên gấp đôi cũng khác nhau: Nếu Anh cần 50 năm, Nhật Bản chỉ 34 năm thì Hàn Quốc chỉ mất 11 năm.

Sở dĩ xuất hiện con đường rút ngắn là do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra các tiền đề về khoa học và công nghệ, về giáo dục và đào tạo, về y tế, về tổ chức và quản lý, về vống đầu tư cho các nước phát triển sau, thông qua quá trình toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa.

Vào cuối thế kỷ XX trở đi, khi kinh tế tri thức ra đời và lớn mạnh thì những tiền đề ấy đã có một bước phát triển cao hơn về chất lượng. Thu hút những thành tựu ấy từ các nước phát triển để xây dựng chế độ mới là vấn đề có tính quy luật, tính nguyên tắc trong đường lối phát triển của đảng cầm quyền.

Thực tiễn hợp tác đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế thế giới những năm qua đã đem lại một bài học cảnh tỉnh các nước phát triển sau. Đó là nhà đầu tư nước ngoài chỉ lo thu lợi nhuận trước mắt của họ, bất chấp những vấn đề xã hội và môi trường bị tàn phá ở nước sở tại, kể cả trong hợp tác đầu tư cho giáo dục đại học. Bài học chỉ ra rằng: nước tiếp nhận đầu tư phải biết lựa chọn những thành tựu mình cần và biết tránh những mánh khóe, thủ đoạn kinh doanh kiểu cũ của nhà đầu tư nước ngoài.

II. Một số vấn đề cơ bản trong thực tiễn phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Kinh tế tri thức được đưa vào Văn kiện Đại hội IX của Đảng ở mức độ “từng bước vận dụng kinh tế tri thức”. Quá trình mở cửa và hội nhập chịu tác động ngày càng tăng của kinh tế tri thức (đang vận động trong quỹ đạo chủ nghĩa tư bản), làm bộc lộ cả tiềm năng và hạn chế của nước ta, rõ nhất là ở thực trạng nền kinh tế và thể chế kinh tế chính trị. Để phân tích đầy đủ tiềm năng và hạn chế của ta trước xu thế kinh tế tri thức, cần có sự tổng kết ở phạm vi quốc gia để định vị nước ta và định hướng phát triển kinh tế tri thức. Ở phạm vi một nghiên cứu ngắn, chúng tôi chỉ có thể nêu một số vấn đề cơ bản từ thực tiễn nước ta.

Thứ nhất, định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế tri thức

Nhiều đảng cộng sản cầm quyền trong thế kỷ XX với chiến công lừng lẫy nhưng cuối cùng đều thất bại do đường lối phát triển kinh tế - xã hội không hợp thời đại. Bài học lịch sử thế giới đó chỉ ra rằng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, cuộc đại khủng hoảng thể chế kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện nay lại phát đi tín hiệu rằng kinh tế tri thức không phải là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản mà của một xã hội thay thế nó. Chính sức mạnh của tất yếu kinh tế trong thời đại hiện nay đang là thách thức lớn nhất đối với tất cả các chế độ chính trị trên thế giới. Trong đó khó khăn hơn là đối với các nước lạc hậu phát triển sau.

Xét về bản chất, kinh tế tri thức không phải là cơ sở của nền thống trị của số ít đối với nhân dân, của chủ nghĩa bá quyền nước này đối với nước khác.

Từ những quan sát ấy có thể nhận rõ rằng, sự phát triển kinh tế tri thức là cơ hội chưa từng có của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (với nội hàm là phát triển bền vững).

Liên hệ với thực tế thì thấy rằng, trong thời đại kinh tế tri thức kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa là có cơ sở khoa học thực tiễn. Nhưng sự kiên trì này ở Việt Nam lại chưa được thể hiện trong mô hình phát triển kinh tế - xã hội. Với nhứng vấn nạn về xã hội và môi trường ngày càng tăng, với những hậu quả của tệ quan liêu, tham nhũng trong quản lý đã cho thấy mô hình công nghiệp hóa dựa trên khai thác tài nguyên và lao động rẻ đã lỗi thời, hoàn toàn không phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa và với thời đại hiện nay.

Chuyển sang mô hình kinh tế thị trường dựa trên kinh tế tri thức vừa là một đòi hỏi cấp bách của định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phù hợp với thời đại kinh tế hiện nay. Đây phải là một trong những vấn đề chiến lược cơ bản của Đại hội XI của Đảng.

Thứ hai, kết hợp nội lực với ngoại lực

Nội lực và ngoại lực là hai sức mạnh cơ bản của con đường phát triển rút ngắn. Kết hợp tốt hai sức mạnh đó thì dân tộc mới có thể đồng hành cùng thời đại. Ngoại lực ở đây là những thành tựu của kinh tế tri thức trên tất cả các lĩnh vực, chứ không phải bất cứ ngoại lực nào. Không có ngoại lực này thì các nước phát triển sau chỉ dừng lại ở nền kinh tế thị trường “hoang dã”. Chính vì vậy mà V.I.Lê – nin đòi hỏi những người cộng sản phải dang cả hai tay mà nắm lấy những thành tựu tiên tiến của chủ nghĩa tư bản.

Mặt khác, muốn sử dụng thành tựu tiên tiến làm cho dân giàu, nước mạnh thì phải phát huy nội lực của dân tộc. Trong đó chủ yếu nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao trên các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và văn hóa, lãnh đạo và quản lý các cấp và doanh nghiệp. Không có hoặc thiếu nguồn nội lực như vậy thì chỉ tiếp nhận những nguồn ngoại lực chất lượng thấp, thậm chí là “rác thải” của các nước khác.

Nhìn vào thực trạng nước ta, đây đang là khâu yếu nhất của hệ thống, từ trình độ công nghệ cao và tổ chức quản lý ở doanh nghiệp cho đến các lĩnh vực khoa học và công nghệ, nền giáo dục, đào tạo, môi trường văn hóa, hệ thống lãnh đạo quản lý các cấp. Hệ quả là chỉ có thể tăng vốn đầu tư để đạt tốc độ tăng trưởng cao, còn chất lượng, hiệu quả thấp.

Thứ ba, xây dựng thể chế chính trị phù hợp với yêu cầu vận dụng và phát triển kinh tế tri thức

Một thế chế kinh tế chính trị như vậy sẽ phát huy ngày càng đầy đủ những ưu thế của định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Muốn xây dựng thể chế như vậy, cần có nhận thức mới và giải quyết đúng những vấn đề chủ yếu sau đây:

a/ Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế

Vận dụng quan điểm duy vật lịch sử trong phát triển kinh tế thị trường, V.I.Lê-nin đã đề ra nguyên lý: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”.

Đây là nguyên lý của đảng lãnh đạo và nhà nước quản lý. Nguyên lý đó chỉ rõ: quan điểm chính trị của đảng cầm quyền phải phản ánh được quy luật và nhu cầu kinh tế phát triển bền vững dựa trên kinh tế trị thức (chứ không phải chủ quan duy ý chí, dù là của số đông). Trên cơ sở ấy, và chỉ trên cơ sở ấy, hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta sẽ phát huy đầy đủ tác dụng và hiệu quả. Đây còn là cơ sở để xây dựng nền dân chủ từ trong phát triển kinh tế, để khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, tệ nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm của một số cán bộ lãnh đạo. Chỉ trên cơ sở ấy mới có mối quan hệ công khai, minh bạch, công bằng trong thực tế

Trong giai đoạn hiện nay, nền chính trị tiến bộ phải phản ánh được yêu cầu phát triển bền vững với nội hàm là “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường” như đường lối đã nêu (nhưng chưa thực hiện). Địa vị hàng đầu của chính trị là giải quyết được khâu “đi đôi” trong thực tế, tức là bảo đảm sự phát triển đồng thuận giữa kinh tế với xã hội và môi trường, chứ không phải chỉ nói trong hội nghị, còn ngoài đời sống thì tình trạng ô nhiễm tăng lên, tài nguyên và môi trường bị tàn phá nặng nề như hiện nay.

b/ Cấu trúc và sự vận hành của thể chế

Dựa trên nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế để hình thành cấu trúc của thể chế gồm ba bộ phận: “Tổ chức lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, tổ chức của hệ thống doanh nghiệp, hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân. Hiệu quả của thể chế phụ thuộc không những vào cấu trúc như trên, mà còn phụ thuộc vào phương thức vận hành của thể chế, đó là thiết lập mối quan hệ thông tin, tương tác thường xuyên giữa các bộ phận. Trên cơ sở tích hợp thông tin (không ngừng biến đổi từ thực tiễn) mà mỗi bộ phận tìm ra phương án hoạt động tối ưu của mình. Nhờ đó, cả thể chế sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp lớn hơn của sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước.

Thứ tư,mối quan hệ giữa con người với tổ chức

Mối quan hệ này được hình thành trong nền kinh tế thị trường. Nhưng ở giai đoạn kinh tế công nghiệp tư bản chủ nghĩa, con người chỉ là công cụ của tổ chức và tổ chức chỉ là công cụ của ông chủ để thực hiện mục đích làm giàu.

Mối quan hệ mới giữa cá nhân và tổ chức trong kinh tế tri thức hình thành trong môi trường văn hóa mới. Những công trình nghiên cứu về quản lý ở các nước phát triển cho thấy, trong giai đoạn kinh tế công nghiệp phát triển dựa trên “con người kinh tế” như một động lực, còn trong giai đoạn kinh tế tri thức phát triển lại dựa vào “con người văn hóa” với tư cách là động lực vừa là mục tiêu

Đối với nước ta, xây dựng kinh tế tri thức là một vấn đề mới, nhưng là một tất yếu khách quan của giai đoạn mới.

Thứ năm,thời gian và phát triển

Kinh tế thị trường dựa trên quá trình xã hội hóa và cạnh tranh, nên nhân tố thời gian ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển cá nhân và tổ chức. Tiết kiệm thời gian là một ưu thế của xã hội công nghiệp. Các Mác đã nói tới Quy luật tiết kiệm thời gian là một trong những quy luật phát triển kinh tế thị trường. Tác động của quy luật này trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thể hiện ở sự rút ngắn dần thời gian công nghiệp hóa, ở năng suất lao động ngày càng cao, thời gian lao động được rút ngắn.

Quy luật tiết kiệm thời gian chỉ phát huy tác động tốt nhờ sưu phát triển khoa học và công nghệ, tổ chức và quản lý mới khai thác được tiềm năng to lớn về tiết kiệm thời gian, đặc biệt trong giai đoạn kinh tế tri thức.

Đối với nước phát triển sau, đây là cơ hội lớn để tiến kịp thời đại, nếu có tổ chức và thể chế vận hành phù hợp cho phép tiết kiệm mọi nguồn lực xã hội, nguồn lực tự nhiên. Quy luật tiết kiệm thời gian phát huy đầy đủ sức mạnh của nó khi kinh tế thị trường theo định hướng phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức. Quy luật này bị xóa bỏ trong những thể chế quan liêu, tham nhũng, những lĩnh vực hoạt động không có sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước và xã hội. Những nghiên cứu gần đây cho thấy những công trình công nghiệp hóa dựa vào khai thác tài nguyên, tàn phá môi trường đều rơi vào tăng trưởng kinh tế số âm, dù thống kê nhà nước đem lại có tỷ lệ tăng trưởng dương. Tăng trưởng như thế có thể đem lại một số lợi ích hạn hẹp cho thế hệ hiện nay nhưng sẽ để lại những hậu quả lâu dài cho các thế hệ mai sau. Đây cũng là vấn đề hiện nay của Việt Nam . Nó đặt ra tính cấp bách của sự chuyển sang phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.