Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 26/08/2010 22:33 (GMT+7)

Kinh tế tri thức và chiến lược phát triển kinh tế dựa vào tri thức Việt Nam

1. Khái niệm và đặc trưng của nền kinh tế tri thức

1.1. Khái niệm nền kinh tế tri thức

Trước sự chuyển biến nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, các nhà kinh tế và quản lý đã sử dụng nhiều tên gọi khác nhau để mô tả nền kinh tế tương lai của nhân loại: Nền kinh tế công nghệ cao, kinh tế thông tin, kinh tế số hóa, kinh tế mạng, kinh tế dựa vào tri thức, nền kinh tế của trí tuệ sáng tạo,… trong đó thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất là nền kinh tế tri thức.

Không giống với nhiều thuật ngữ khoa học khác, trên thực tế hầu như chỉ có một khái niệm về KTTT được thừa nhận: "Kinh tế tri thức là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở sản xuất, phân phối, sử dụng tri thức và thông tin", "nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế và xã hội".

Như vậy, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế tạo ra giá trị chủ yếu thông qua sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Nền tảng của KTTT là tri thức và động lực của KTTT là khoa học công nghệ, đặc biệt là những ngành công nghệ cao. Trong nền kinh tế này, tri thức và thông tin vượt lên tất cả các nhân tố khác đều giữ vai trò "đầu tàu" quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội.

1.2. Những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức

Kinh tế tri thức có những nét khác so với các nền kinh tế trước đó. Những đặc điểm này còn đang định hình và tiếp tục phát hiện. Tuy vậy, có thể nêu lên những đặc trưng cơ bản có tính xuyên suốt.

Thứ nhất, KTTT là nền kinh tế được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất và dịch vụ sử dụng công nghệ cao và sáng tạo công nghệ trở thành loại hình sản xuất tiêu biểu nhất.

Trong sản xuất, KTTT lấy các ngành công nghệ cao làm nền tảng. Những ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô,… chúng đang hội tụ với nhau tạo thành nền tảng cho một hệ thống công nghệ mới của thế kỷ XXI - công nghệ của nền KTTT. Hệ thống công nghệ mới này đang làm biến đổi sâu sắc quá trình sản xuất, cách thức sản xuất kinh doanh, phương thức tổ chức quản lý,…. Và như vậy, nó chi phối toàn bộ quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế quốc dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của các nhà kinh tế học cho rằng, chỉ khi nào có được các ngành công nghệ cao mà giá trị do tri thức mới mang lại chiếm 2/3 tổng giá trị sản phầm là ngành kinh tế tri thức và khi nào nền kinh tế bao gồm chủ yếu các ngành kinh tế tri thức thì gọi là nền KTTT.

Trong hệ thống công nghệ mới thì công nghệ thông tin có ý nghĩa quyết định. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội hiện đại đều có tác động và in dấu ấn của công nghệ thông tin. Sự phát triển của công nghệ thông tin (siêu xa lộ thông tin, Internet,…) giúp cho thông tin và tri trức phát huy được những mặt mạnh của nó. Với tốc độ truyền tải thông tin nhanh chóng đã làm cho nhịp điệu cuộc sống, sản xuất kinh doanh sôi động hẳn lên, thế giới dường như đang thu hẹp lại, vòng đời của kỹ thuật và sản phầm càng rút ngắn.

Công nghệ thông tin đang là điểm tựa, xương sống của nền kinh tế quốc dân, nên các ngành kinh tế phải dựa vào đó để đổi mới và phát triển. Vì vậy, hoạt động sáng tạo trở thành hoạt động đăc trưng của nền sản xuất tương lai và "sáng tạo cái mới" được coi là nhân tố nội tại, là linh hồn của nền KTTT. Hoạt động sáng tạo chủ yếu là sáng tạo công nghệ mới, sản phẩm mới, phương thức quản lý mới,… trong đó sáng tạo công nghệ mới trở thành loại hình sản xuất tiêu biểu nhất.

Thứ hai, vốn quý nhất trong nền KTTT là tri thức, tri thức khoa học công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là lực lượng sản xuất thứ nhất, là lợi thế để phát triển. Học tập là nhu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát huy nhân tố con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.

Nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, máy móc thay thế lao động cơ bắp của con người, còn ngày nay máy tính giúp con người trong lao động trí óc, nhân lên gấp bội sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo của con người. Tri thức vừa được sử dụng để quản lý, điều khiển, tham gia vào quá trình sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong sản phẩm như nguyên liệu sản xuất. Tri thức để xử lý tri thức, làm ra tri thức,… Tri thức đang trở thành nguồn lực cơ bản nhất, quan trọng hơn cả vốn, tài nguyên và sức lao động, "Tri thức là nhân tố trực tiếp của chức năng sản xuất" - dự báo của Mác đã trở thành hiện thực.

Trong nền KTTT, hoạt động chủ yếu nhất là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức, sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Lực lượng sản xuất xã hội loài người từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên đang chuyển dần sang dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người.

Có thể khẳng định, nền KTTT hình thành và phát triển là nhờ năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo ra tri thức mới và tận dụng tri thức mới. Sáng tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là nguồn gốc của KTTT ngày nay.

Không giống như các nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin càng sử dụng càng được hoàn thiện, giá trị của nó cáng nhân lên. Đặc điểm nổi bật của tri thức trong thời đại ngày nay là tốc độ gia tăng nhanh chóng, khả năng lan truyền rộng rãi buộc mọi người đều học tập để phát triển trí sáng tạo, chủ động theo kịp sự đổi mới và có khả năng thúc đẩy sự đổi mới. Do đó, một nền KTTT đòi hỏi phải đầu tư mạnh vào sự phát triển tri thức mới nhằm duy trì và tăng cường vai trò dẫn dắt của tri thức.

Yếu tố cốt lõi của nền KTTT là tri thức lại gắn với con người, do con người tạo ra, còn tố chất của con người lại liên quan trực tiếp đến hoạt động giáo dục, cho nên hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người được học tập, chú trọng phát triển tài năng của con người thông qua đổi mới hệ thống giáo dục. Giáo dục phải biến tri thức thành kỹ năng, tri thức thành trí lực, dân trí thành nhân lực. Giáo dục phải đặt con người vào vị trí trung tâm.

Thứ ba, kinh tế tri thức là nền kinh tế có cấu trúc mạng toàn cầu.

Nền kinh tế thế giới đang được cấu trúc thành một mạng lưới toàn cầu. Về bản chất, hệ thống mạng được cấu trúc "ngang" khác cơ bản với nền kinh tế trước đây vận động theo cấu trúc "dọc". Mạng lưới toàn cầu của nền KTTT được kiến tạo bởi:

- Các "chất liệu" phát triển cơ bản khác trước như: máy tính, mạng viễn thông, Internet, các vật liệu mới,…

- Hệ thống phân công lao động quốc tế - toàn cầu thay cho hệ thống phân công lao động quốc tế - quốc gia. Nó vận động theo qui tắc sản xuất, thương mại và tài chính mới trong không gian toàn cầu hóa.

- Quá trình phi tập trung hóa cấu trúc kinh tế - xã hội. Quá trình đô thị hóa diễn ra theo những xu hướng mới. Các đô thị khổng lồ không còn là sự lựa chọn chủ yếu: Khái niệm văn phòng, chỗ làm việc, thị trường… đang thay đổi mạnh mẽ khi công việc chủ yếu của nhân loại là sản xuất tri thức, được tiến hành trong môi trường tự động hóa cao trên cơ sở mạng thông tin với công cụ chính là máy tính nối mạng.

- Sự thay đổi cơ cấu quyền lực trong nền kinh tế. Quan hệ lệ thuộc - cai trị của nền kinh tế trước đây được thay bằng quan hệ tham dự - bình đẳng. Lực lượng nào sở hữu nhiều tri thức và nhân tài sẽ quyết định vận mệnh của mỗi dân tộc.

Thứ tư, nền kinh tế tri thức có tốc độ phát triển cực kỳ cao.

Đặc điểm quan trọng nhất của KTTT là tốc độ biến đổi cực kỳ cao. Nó thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức, sự thay đổi về giá cả, tốc độ ứng dụng các phát minh khoa học - công nghệ vào thực tiễn và hệ quả đi liền là tốc độ biến đổi của đời sống trên mọi phương diện.

Tốc độ sản sinh tri thức ngày càng nhanh, thời gian cần thiết để tăng gấp đôi lượng tri thức của nhân loại càng rút ngắn. Các nhà khoa học đã nhận định: Tri thức của loài người ở thế kỷ XIX cứ 50 năm thì tăng gấp đôi, sang đầu thế kỷ XX cứ 30 năm tăng gấp đôi, vào giữa thế kỷ XX cứ 10 năm tăng gấp đôi, đến những năm 1970 cứ 5 năm tăng gấp đôi và đến những năm 1980 cứ 3 năm tăng gấp đôi. Có thể nói, càng lùi vào quá khứ thì quãng thời gian nhân đôi tri thức càng lớn, đo bằng thế kỷ, thiên niên kỷ.

Tốc độ biến đổi giá cả của các sản phẩm càng mới càng nhanh. Một tri thức hôm nay có giá trị hàng tỷ USD, ngày mai có thể vô giá trị. Dường như có một quy luật: các sản phẩm càng hiện đại thì tốc độ biến đổi giá càng cao. Nếu phải cần đến 60 năm để cước vận tải biển và phí cảng biển giảm đi một nửa, thì cũng trong thời gian ấy, cước hàng không giảm đi 6 lần và giá dịch vụ điện thoại giảm 82 lần. Kinh ngạc hơn chỉ trong vòng 30 năm, từ năm 1960 đến năm 1990, giá máy tính đã giảm đi 125 lần. Vì vậy, trong thời đại ngày nay việc tiếp cận và trao đổi tri thức ở phạm vi toàn cầu có ý nghĩa sống còn, cạnh tranh trong KTTT trước hết là cạnh tranh về tốc độ, về tư duy.

Tốc độ áp dụng và phổ biến các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao. Nếu dịch vụ điện thoại cần 74 năm để đạt con số 50 triệu thuê bao, thì chỉ 30 năm số người sử dụng rađio đã đạt con số 50 triệu, máy tính cá nhân chỉ cần đến 16 năm, tivi cần 13 năm và mạng thông tin toàn cầu chỉ cần có 4 năm.

Đặc điểm tốc độ biến đổi nhanh chóng trên nhiều phương diện của nền kinh tế này nói lên rằng, khả năng bắt kịp các nước đi trước cũng lớn như khả năng tụt hậu xa hơn. Mức độ hiện thực hóa mỗi một khả năng tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết là tính hợp lý của mô hình và chiến lược "đi tắt" được lựa chọn cũng như quyết tâm theo đuổi nó.

Thứ năm, nền KTTT là nền kinh tế lấy toàn cầu làm thị trường và là nền kinh tế phát triển bền vững.

Nền KTTT lấy thị trường toàn cầu làm hướng hoạt động chính. Tri thức, thông tin lưu động không có biên giới làm cho nền KTTT mang tính toàn cầu. Công nghệ thông tin làm cho hợp tác kinh tế, văn hóa mang tính toàn cầu, đồng thời cạnh tranh gay gắt trên cả bình diện trong nước lẫn quốc tế.

Ta biết, tư tưởng chỉ đạo của phát minh kỹ thuật truyền thống là đơn nhất, tận dụng hết khả năng khai thác tài nguyên thiên nhiên để giành lấy lợi nhuận cao nhất, ít quan tâm đến môi trường sinh thái và lợi ích xã hội; phát triển trên cơ sở tài nguyên thiên nhiên vô tận và dung lượng môi trường không bao giờ cạn kiệt. Còn tư tưởng chỉ đạo của kỹ thuật cao, công nghệ mới là lợi dụng một cách khoa học, hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên hiện có, đồng thời khám phá nguồn tài nguyên mới để thay thế tài nguyên thiên nhiên đã cạn kiệt. Do đó, mục tiêu của KTTT là phát triển bền vững, thúc đẩy sự hài hòa giữa con người với tự nhiên.

2. Chiến lược phát triển kinh tế dựa vào tri thức của Việt Nam

2.1. Mô hình phát triển

Đại hội VIII đã khẳng định " Đến năm 20202 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại" và đến Đại hội X, Đảng ta đã cụ thể hóa thêm: " Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức". Do đó, chiến lược phát triển đất nước ta là chiến lược dựa vào tri thức và thông tin. Nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc độ: chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và kinh tế công nghiệp sang KTTT. Hai nhiệm vụ ấy phải thực hiện đồng thời, lồng ghép, đan xen, hỗ trợ cho nhau. Điều đó có nghĩa là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; nâng cao năng lực sản xuất các ngành công nghiệp và dịch vụ cơ bản; đồng thời nhanh chóng phát triển các ngành dựa vào tri thức và công nghệ cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức.

2.2. Những giải pháp cơ bản để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế dựa vào tri thức

Một là, đổi mới cơ chế, chính sách và luật pháp phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; tạo lập môi trường thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển.

- Nhà nước tôn trọng yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường, nhanh chóng xây dựng các yếu tố của nền kinh tế thị trường hiện đại; thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhằm phát huy tính tự chủ, sáng tạo của các doanh nghiệp.

- Nhà nước chăm lo đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ thể sản xuất kinh doanh hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch và có trật tự kỷ cương.

- Không có ý tưởng mới, các công nghệ thành sản phẩm sẽ không có tri thức khoa học công nghệ và do đó không có tri thức mới. Cho nên, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp luôn luôn tự đổi mới, tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp tri thức, các ngành kinh tế dựa vào tri thức.

Hai là, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện hệ thống giao dục đào tạo và phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Tăng đầu tư để phát triển giáo dục, đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, cơ chế quản lý. Giáo dục phải hướng tới xây dựng những thế hệ người Việt Nam có lý tưởng, bản lĩnh, sức khỏe, năng lực, có khả năng sáng tạ và làm chủ tri thức mới. Đây là giải pháp quyết định nhất.

- Chuyển mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở, bằng nhiều phương thức, để tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học.

- Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập với ý nghĩa "một nền giáo dục cho mọi người và do mọi người".

- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo, tiếp cận chuẩn đào tạo tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam . Xây dựng một số trường đại học đạt trình độ quốc tế.

- Điều chỉnh cơ cấu đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực đồng bộ, chú trọng nhân lực khoa học công nghệ có trình độ cao; đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp,…

- Chú trọng đào tạo, bòi dưỡng, trọng dụng nhân tài, sử dụng bố trí hợp lý nguồn nhân lực được đào tạo.

Ba là, phát triển và ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ thông tin.

- Xây dựng một nền khoa học công nghệ nội sinh đủ sức tiếp thu và làm chủ công nghệ nhập khẩu, tiến tới cải biến, sáng tạo và xuất khẩu công nghệ.

- Có chính sách ưu tiên phát triển công nghệ cao, công nghệ sạch. Tập trung phát triển mạnh công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, vật liệu mới,… Xây dựng và phát triển các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao.

- Tăng đầu tư cho khoa học và công nghệ. Thúc đẩy hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường. Xây dựng và phát triển thị trường khoa học công nghệ.

- Ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin trong các lĩnh vực kinh tế xã hội. Xác định công nghệ thông tin là ngành kinh tế có vị trí quan trọng hàng đầu, là mũi nhọn của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn vậy, phải nhanh chóng hình thành mạng thông tin quốc gia, phát triển thương mại điện tử, thúc đẩy tin học hóc trong tất cả các ngành. Đâu tư mạnh hơn nữa đào tạo nhân lực cho công nghệ thông tin.

KTTT là thực tế khách quan, những đặc trưng cơ bản của nó đang được bộc lộ rõ ở các nước phát triển. Điều này vừa tạo cho nước ta vận hội lớn, vừa đặt ra những yêu cầu, thách thức mới cần phải vượt qua. Việc nghiên cứu, đánh giá đúng đắn những tác động thuận nghịch mà xu hướng này mang lại để chủ động tìm kiếm "mô hình phát triển", xây dựng lộ trình phù hợp là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Kinh nghiệm thực tế từ các nước phát triển và đang phát triển cho thấy cần phải tạo ra một nền kinh tế thị trường phát triển, một hệ thống giáo dục và đào tạo tốt để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao và một hệ thống đổi mới quốc gia năng động, xây dựng một nền khoa học công nghệ nội sinh, trong đó công nghệ thông tin phát triển cao độ. Đây là những điều kiện cơ bản nhất cho sự hình thành và phát triển KTTT.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.