Kinh nghiệm ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi – Bài học từ thực tiễn
Trên cơ sở các tham luận, các ý kiến thảo luận tại Hội trường và Kết luận Hội thảo của nguyên Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Mạnh Hải, có thể nêu tóm tắt những thành tựu đạt được của Chương trình nông thôn, miền núi trong thời gian qua và bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình đưa KH&CN vào thực tiễn trên địa bàn nông thôn, miền núi như sau:
Một số kết quả đạt được:
Thực hiện Quyết định số 122/2004/QĐ-TTg ngày 05/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình “Xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi giai đoạn 2004 – 2010”, Bộ KH&CN và Ban chỉ đạo Chương trình đã phối hợp cùng với các Bộ, ngành có liên quan, các địa phương đã triển khai thực hiện 212 dự án tại 58 tỉnh, thành phố với tổng kinh phí là 535.567,6 triệu đồng (chiếm 38,6%) và huy động từ dân, doanh nghiệp, ngân sách địa phương là 328.912,0 triệu đồng (chiếm 61,4%). Thông qua việc triển khai các dự án thuộc Chương trình đã huy động trền 1.200 lượt cán bộ khoa học từ 68 tổ chức KH&CN của Trung ương và địa phương cả nước về phục vụ tại địa bàn nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đã xây dựng được 856 mô hình ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật (TBKT) vào sản xuất; đào tạo trên 1.566 kỹ thuật viên cơ sở và tập huấn công nghệ cho trên 35.136 lượt nông dân.
Các nội dung dự án đã giúp các địa phương tiếp nhận, làm chủ và phát triển các công nghệ để giải quyết các vấn đề về: Chuyền đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao nhằm tăng năng suất, tăng thu nhập trên diện tích hiện có tại địa phương; phát triển các sản phẩm lợi thế của Việt Nam như cây ăn quả có múi, hoa; phát triển cây công nghiệp, cây dược liệu, cây ăn quả; trồng và bảo vệ rừng, chế biến nông, lâm, hải sản; tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp và lao động nông nhàn; phát triển nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu; giải quyết nước sạch quy mô hộ gia đình và cụm dân cư; xây dựng vùng nguyên liệu phục vụ việc khôi phục và phát triển nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống; phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp; sản xuất giống và nuôi thủy sản với hình thức nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, nuôi sinh thái; ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất và sử dụng các chế phẩm sinh học phục vụ nông sản an toàn; xử lý môi trường nông thôn và môi trường làng nghề; cung cấp thông tin KH&CN phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Một số dự án đã thực sự tạo được điểm sáng về ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực trên địa bàn thực hiện dự án, góp phần cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời làm tiền đề cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác của địa phương, nâng cao niềm tin và ý thức của người dân trong việc ứng dụng TBKT vào sản xuất và đời sống. Chương trình cũng đã góp phần cùng với các chương trình Khuyến nông, Khuyến ngư và Khuyến công hình thành và phát triển nghề trồng nấm, nghề nuôi cá lồng, hình thành các doanh nghiệp chế biến lâm sản và thủy, hải sản nhỏ ở địa phương, tạo việc làm và tăng thu nhập cho hàng chục ngàn lao động ở khu vực nông thôn, miền núi. Có thế nêu một số dự án nổi bật như: Dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng TBKT về giống cây trồng nâng cao chất lượng nông sản, tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác ở một số xã thuộc huyện Ninh Giang, Hải Dương”; các dự án nấm ở các tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc (Sơn La, Thái Nguyên), vùng đồng bào Khmer Nam Bộ (Sóc Trăng); Bắc Trung Bộ (Hà Tinh); dự án Chế biến thủy sản ở Quỳnh Lưu, Nghệ An; dự án “Xây dựng trại sản xuất giống cua biển tại vùng đầm nước lợ xã Kim Đông, huyện Kim Sơn – Ninh Bình”; dự án chế biến gỗ ở Bình Phước; dự án sản xuất lúa an toàn ở Bình Định, v.v…
Bài học kinh nghiệm:
Từ kết quả các dự án chuyển giao KTTB thành công vào thực tiễn, ở mỗi dự án với nội dung chuyển giao TBKT, con người, tổ chức quản lý,… cụ thể của từng địa bàn cụ thế có những kinh nghiệm khác nhau, nhưng có thể nhóm lại thành một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là,chọn được công nghệ chuyển giao thích hợp, đáp ứng được nhu cầu bức xúc của nông dân, phù hợp với khả năng tiếp thu, tiền vốn, các điều kiện cơ sở vật chất cũng như điều kiện sinh thái của vùng dự án.
Hai là, chọn được đơn vị chuyển giao và người đứng đầu đơn vị chuyển giao TBKT có uy tín với vùng chuyển giao dự án; tức là Tổ chức đó có năng lực, kinh nghiệm về hoạt động chuyển giao, có khả năng, kiến thức và năng lực thực hiện nhiệm vụ chuyển giao TBKT đã được duyệt và có óc sáng tạo để đưa hoạt động chuyển TBKT vào được vùng dự án – có thể đó là vùng còn nghèo và khó khăn về nhiều mặt; đồng thời phải là tổ chức có được sự tin cậy của địa phương (trực tiếp là Sở KH&CN, Sở NN&PTNT, Trung tâm khuyến nông – Khuyến ngư).
Ba là,lựa chọn thật tốt cơ quan chủ trì dự án và chủ nhiệm dự án. Cơ quan chủ trì và chủ nhiệm dự án cũng phải có năng lực, uy tín và có trách nhiệm cao trong việc hợp tác khách quan với cơ quan chuyển giao để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ chuyển giao TBKT cho vùng dự án.
Bốn là, có sự đồng thuận cao giữa cơ quan chủ trì, chủ nhiệm dự án, cơ quan chuyển giao và UBND cấp xã vùng dự án. Để có được sự đồng thuận giữa các cơ quan này cần có sự bàn bạc thống nhất và được cụ thể hoá bằng Hợp đồng phân công trách nhiệm thực hiện thuyết minh dự án đã được duyệt. Tức là tăng cường liên kết “4 nhà” trong công tác chuyển giao TBKT.
Năm là, có cơ chế nhằm giao quyền chủ động và có thẩm quyền cao trong việc quyết định sử dụng kinh phí đã được phê duyệt trên cơ sở thông qua UBND xã và chủ nhiệm dự án. Hay nói cách khác, cơ quan chuyển giao phải được quyết định sử dụng kinh phí đúng mục đích của dự án để thực hiện trên cơ sở có sự kiểm tra, giám sát của cơ quan chủ trì, chủ nhiệm dự án và UBND xã và người dân tham gia dự án ở vùng triển khai dự án.
Sáu là, phát huy vai trò của chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội của xã, huyện thuộc vùng dự án nhằm cộng tác chặt chẽ và hỗ trợ tối đa việc chuyển giao TBKT, đôn đốc nông dân tham gia; thường xuyên phối hợp với cơ quan chuyển giao thăm đồng, thăm mô hình để kiểm tra việc chuyển giao TBKT và kết quả xây dựng mô hình. Muốn vậy, UBND xã cần phải cử ít nhất 01 Phó Chủ tịch UBND trực tiếp phụ trách theo dõi công việc dự án cùng với cán bộ kỹ thuật viên tham gia dự án.
Bảy là, cơ quan chuyển giao phải đi sâu, đi sát nông dân để nắm tâm tư nguyện vọng của bà con vùng dự án và giám sát việc thực hiện các mô hình cũng như kết quả và hiệu quả của việc chuyền giao TBKT; kịp thời giúp đỡ người dân về mặt kỹ thuật hay điều chỉnh hoạt động chuyển giao cho phù hợp.
Tám là,công khai rộng rãi các hoạt động của dự án chuyển giao TBKT, các định mức kinh phí đầu tư theo thuyết minh dự án với UBND xã, cho các hộ tham gia thực hiện mô hình dự án để nông dân an tâm và tránh thắc mắc; đồng thời bàn bạc và giao quyền lựa chọn hộ tham gia dự án cho chính quyền và các đoàn thể địa phương trên cơ sở ưu tiên các đối tượng nông dân nghèo, thuộc diện chính sách, người dân tộc thiểu số trong vùng dự án.
Chín là,cấp đủ và kịp thời kinh phí cho cơ quan chuyển giao TBKT để họ có thể đảm bảo thực hiện đúng tiến độ các công việc của dự án. Tránh việc cấp kinh phí chậm làm giảm uy tín của cơ quan chuyển giao đối với bà con nông dân do không thực hiện đúng kế hoạch, giảm hiệu quả công việc và mô hình dự án.
Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn trên cũng chính là những điều kiện cần thiết đảm bảo đưa thành công TBKT vào thực tiễn sản xuất đời sống không chỉ cho vùng nông thôn, miền núi.








