Khoa học và Công nghệ phục vụ chương trình giống cây trồng và giống vật nuôi
Chương trình giống cây trồng nông, lâm nghiệp và giống vật nuôi thời kỳ 2000-2005 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 225/1999/QĐ-TTg ngày 10.12.1999. Thực hiện Chương trình này, 5 năm qua, hoạt động KH&CN của ngành nông nghiệp đã tập trung giải quyết tốt việc kết hợp các phương pháp truyền thống và hiện đại như công nghệ sinh học (công nghệ gen, tế bào, phôi), sử dụng ưu thế lai để nghiên cứu, chọn tạo các giống cây trồng, vật nuôi và sản xuất giống có năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu được các stress sinh học và phi sinh học. Nghiên cứu, chọn tạo giống là một quá trình liên tục, kết quả của giai đoạn này có thể bắt nguồn từ những nghiên cứu của giai đoạn trước. Tuy vậy, việc triển khai thực hiện Chương trình đã cho phép thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu cơ bản, ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống và tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy những kết quả nghiên cứu của giai đoạn trước được hoàn thiện và chuyển giao nhanh vào sản xuất.
Một số kết quả chủ yếu
Về giống cây trồng nông nghiệp
Giai đoạn 2001-2005 đã công nhận 69 giống lúa, 31 giống ngô, 4 giống cây có củ, 12 giống đậu tương, 8 giống lạc, 2 giống đậu xanh, 1 giống vừng, 8 giống cây công nghiệp, 8 giống ca cao, 6 giống cây ăn quả, 1 giống dưa hấu... Các giống cây trồng mới này hầu hết đều có phẩm chất tốt, được gieo trồng ở nhiều vùng sinh thái trong cả nước và cho năng suất cao hơn các giống cũ từ 10 đến 15%, góp phần vào thành tựu phát triển chung của ngành nông nghiệp.
Về lúa lai, chúng ta đã làm chủ công nghệ chọn thuần và nhân dòng bố mẹ, đã chọn thuần và nhân lượng lớn dòng mẹ, dòng bố cung ứng cho sản xuất hạt lai F1 của các tổ hợp: HYT 83, HYT 100, HYT 92, TH3-3, TH3-4 với diện tích 200-300 ha/năm. Đến nay đã đáp ứng được gần 30% nhu cầu giống lúa lai. Xây dựng và làm chủ quy trình công nghệ sản xuất hạt lai F1, áp dụng rộng rãi ngoài sản xuất, đưa diện tích sản xuất hạt giống lúa lai hàng năm lên khoảng 1.700 ha, năng suất đạt từ 2 đến 2,4 tấn/ha. Đến nay, nhiều tổ hợp lúa lai mới mang thương hiệu Việt Nam đã được chọn tạo và phát triển thành công. Hai giống được công nhận chính thức là HYT 83 và TH3-3, ba giống được công nhận tạm thời là HYT 92, HYT 100, TH3-4. Các giống này cho năng suất tương đương và ưu điểm nổi bật là chất lượng gạo cao hơn, khả năng kháng bệnh tốt hơn các giống lúa lai Trung Quốc. Các tổ hợp lai tốt nhất đã được đưa ra sản xuất đại trà gồm: Lai 2 dòng (VL20, TH3-3, TH3-4, HC1); lai 3 dòng (HYT83, HYT100, HYT92).
Về lúa chất lượng cao, lúa nếp, lúa đặc sản: Đã chọn được giống nếp 97, trồng nhiều ở các tỉnh miền Bắc với diện tích trên 5.000 ha, năng suất tăng 15-20% so với IRi 352; giống nếp DT22, diện tích 1.500 ha, năng suất tăng 7-10% so với nếp Cái hoa vàng. Tại các tỉnh Bắc Trung Bộ đã trồng giống lúa P1, hàm lượng Protein 10,5%, hạt gạo dài, năng suất cao, có triển vọng phát triển hàng hoá. Giống lúa thơm HT1 được trồng với diện tích 10.000 ha ở Hà Tây, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam , Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh... năng suất cao hơn Bắc thơm 7 từ 10 đến 15%. ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã trồng giống lúa thơm cao cấp OMĐS20 (diện tích trên 25.000 ha ở Tiền Giang, Long An, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Sóc Trăng), năng suất tương đương IR64, gạo thơm, ngon, cho hiệu quả kinh tế cao hơn 20% so với các giống cũ. Giống OM3536 là giống lúa cực sớm (95-105 ngày), phẩm chất gạo tốt đã trở thành 1 trong 5 giống chủ lực của 1 triệu hécta lúa xuất khẩu ở phía Nam; diện tích đạt trên 100.000 ha, năng suất bằng IR64, hiệu quả kinh tế cao hơn 6% (nhờ mùi thơm). Chúng ta cũng đã chọn được nhiều giống lúa chịu hạn, chịu chua phèn, sâu bệnh và mở rộng ra diện tích đại trà ở tất cả các vùng sinh thái.
Chỉ tính riêng 69 giống lúa được công nhận trong giai đoạn 2001-2005 với diện tích gieo trồng khoảng 1,6 triệu hecta, năng suất cao hơn 10% thì tổng sản lượng tăng thêm là 794 ngàn tấn, tương ứng với số tiền xấp xỉ 2 ngàn tỷ đồng.
Trong sản xuất ngô, nhờ tăng cường sử dụng giống ngô lai, ngô thụ phấn tự do kết hợp với các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, năng suất và sản lượng ngô từ 2,96 tấn/ha và 2,16 triệu tấn năm 2001 đã tăng lên 3,6 tấn/ha và 3,75 triệu tấn năm 2005. Với 31 giống ngô mới được công nhận giai đoạn 2001-2005 trồng trên diện tích 86.500 ha (năm 2004) đã góp phần làm tăng 30 ngàn tấn ngô và làm lợi cho sản xuất khoảng 60 tỷ đồng.
Trong 5 năm qua, có 8 giống lạc, 12 giống đậu tương và 4 giống đậu xanh được công nhận, trong đó có giống lạc năng suất lên đến trên 5 tấn/ha. Diện tích trồng các giống mới chiếm 65% diện tích lạc cả nước. Các giống đậu tương ĐT12, AK06, D9804, DT96, HL25... cho năng suất vượt đối chứng 10-15%, đặc biệt đã chọn được các giống có thời gian sinh trưởng khác nhau (ngắn, trung, dài) phù hợp với các công thức luân canh và trồng xen. Các giống lạc, đậu tương mới đã góp phần làm tăng hơn 2 ngàn tấn lạc và gần 1 ngàn tấn đậu tương, làm lợi cho sản xuất khoảng 30 tỷ đồng.
2 giống khoai tây mới chọn tạo (VC 38.6 và P3) được trồng trên 450 ha ở các tỉnh phía Bắc, cho năng suất tăng hơn giống cũ 6 tấn/ha, sản lượng tăng trên 3.000 tấn. Công nhận tạm thời giống PO3 và đưa ra sản xuất 7 giống triển vọng mới. Về giống khoai lang, có 1 giống được công nhận (VĐ1) và 3 giống được công nhận tạm thời (TQ1, H1.2 và KB4). 4 giống sắn mới được chọn tạo có thời gian sinh trưởng từ 8 đến 10 tháng, năng suất củ tươi 34-35 tấn/ha, tỷ lệ chất khô trên 40%, hàm lượng tinh bột trên 28%, năng suất tinh bột 9-10 tấn/ha, có thể sử dụng ăn tươi hoặc chế biến tinh bột.
Sau 5 năm, đã chọn tạo được 23 giống rau có năng suất cao, chất lượng tốt giới thiệu cho sản xuất, gồm 10 giống cà chua, 4 giống dưa chuột, 3 giống ớt cay, 1 giống dưa hấu và 5 giống đậu rau. Trong đó có 12/23 giống là giống lai và đột biến, với năng suất tăng từ 122,9 tạ/ha lên 146,5 tạ/ha (tăng hơn 19%).
Tạo được nhiều dòng cây tam bội thể (không hạt) từ các giống quýt Chum, cam Sành, bưởi Phúc Trạch, bưởi Diễn. Chọn được giống cam Valencia , năng suất cao và ít hạt, được trồng với diện tích trên 20 ha. Giống nho xanh NH01-48, trồng trên diện tích 200 ha, năng suất 25-30 tấn/ha, chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước. Các giống vải chín sớm Bình Khê, Yên Hưng, Yên Phú; giống nhãn chín muộn PHM99.1.1, PHM99.2.1 đã góp phần rải vụ thu hoạch, tăng hiệu quả sản xuất cho nông dân. Đã công nhận tạm thời giống thanh long ruột đỏ H14, cho năng suất tương đương giống thanh long ruột trắng nhưng chất lượng cao hơn.
Tạo được giống chè LDP1 chất lượng tốt để chế biến chè xanh và chè đen cao cấp (chè Ô Long, chè Pouchong...), năng suất 10 tấn/ha, cao hơn chè Trung du (giống phổ biến trong sản xuất) tới 106%, đã trồng đại trà ở 12 tỉnh. Chọn được 13 cây chè shan đầu dòng, 2 giống chè shan thích ứng cho vùng thấp (shan Chất Tiền, shan Tham Vè), hiện đang phổ biến rộng trong sản xuất để chế biến chè đen. Tuyển chọn được 7 giống chè có nguồn gốc từ Trung Quốc trồng trong sản xuất được trên 1.000 ha để chế biến chè chất lượng cao.
Giống bông lai VN20-2 được tạo ra có thời gian sinh trưởng 130-140 ngày, tỷ lệ xơ cao (39-42%), chất lượng xơ đạt tiêu chuẩn bông xơ cấp I Việt Nam, chống chịu bệnh mốc trắng và cháy lá tốt hơn các giống đang phổ biến (tính kháng rầy kém hơn).
Tuyển chọn được 8 giống điều vô tính có khả năng thích nghi rộng và cho năng suất cao, góp phần đưa diện tích điều năm 2004 lên gần gấp đôi năm 2001, năng suất từ 4,9 tạ/ha lên 10,1 tạ/ha. Đưa cây điều ra trồng trên đất cát, đất trống đồi trọc, thay thế cây trồng rừng (tại Quảng Trị, trên diện tích thí nghiệm cho năng suất 300-600 kg hạt/ha vào năm thứ 3). Xác định được 2 giống điều lùn, năng suất có thể đạt 3-4 tấn/ha, thích ứng rộng.
Giống vật nuôi
![]() |
Chọn lọc được 2.224 bò cái F2 3/4 và 7/8 máu ngoại đạt sản lượng trên 4.000 kg sữa/chu kỳ, trong đó có 925 con đủ tiêu chuẩn đưa vào đàn hạt nhân. Đặc biệt đã có 324 con bò F2 cao sản đạt trên 5.000-8.000 kg sữa/chu kỳ. Phát triển được đàn bò lai hướng thịt với các giống Charolais, Hereford , Limousine, Red Brahman... Xác định được quy trình nuôi bê lai lấy thịt, lúc 22 tháng tuổi đạt khối lượng 250-300 kg.
Chọn tạo các dòng, giống gà hướng trứng, hướng thịt như gà Ri vàng rơm, gà Lương Phượng LV1, LV2 và LV3, gà Sasso, gà Kabir, gà Ai cập BT2... có sản lượng trứng cao, sản lượng thịt cao, tiêu tốn thức ăn thấp. Mỗi năm đã cung cấp cho sản xuất 0,9-1,5 triệu gà bố mẹ các loại. Hiệu quả kinh tế do sử dụng giống mới khoảng 60 tỷ đồng.
Tạo được 2 dòng vịt siêu thịt, 2 dòng vịt chuyên trứng, mỗi năm các dòng thuần thay thế 2.000 mái, cung cấp khoảng 70 ngàn con vịt bố mẹ và cung cấp cho sản suất khoảng 7 triệu con thương phẩm có năng suất và chất lượng cao.
Đã nuôi thích nghi được 2 giống dê cao sản Ấn Độ, 3 giống dê Mỹ. Đàn dê nhập nội cho năng suất cao hơn hẳn so với những giống dê hiện có ở nước ta. Hàng năm chuyển giao khoảng 1.300-1.500 dê giống các loại cho sản xuất.
Giống cây lâm nghiệp
5 năm qua, kế thừa các nghiên cứu trước chúng ta đã làm chủ công nghệ nhân nhanh giống một số loài cây rừng như nhân giống bằng nuôi cấy mô kết hợp với giâm hom cho bạch đàn, keo và nhiều loài cây trồng rừng khác. Kỹ thuật này tạo được cây con có chất lượng di truyền tốt, ít biến động, tỷ lệ sống cao, thay thế việc trồng rừng bằng cây con gieo ươm từ hạt không rõ nguồn gốc hoặc chất lượng di truyền kém. Công nghệ được tạo ra đơn giản, có thể áp dụng ở quy mô công nghiệp (hàng chục triệu cây/vườn ươm/năm) hoặc quy mô gia đình (hàng vạn cây/vườn ươm/năm). Trong 5 năm, đã tuyển chọn, cải thiện, khảo nghiệm và công nhận được trên 90 dòng, giống và xuất xứ cây lâm nghiệp. Hiện nay, trên 60% diện tích rừng trồng đã được sử dụng giống mới. Từ năm 1998 đến năm 2003 đã trồng được 516.600 ha, trong đó chủ yếu là keo và bạch đàn. Đặc biệt, đã công nhận được 2 dòng bạch đàn (SM16, SM23) vừa có khả năng sinh trưởng tốt, vừa kháng được bệnh nguy hiểm do nấm Cylindrocladium quinqueseptatum gây ra ở vùng Đông Nam Bộ.
Nhận xét, đánh giá
Thực hiện Chương trình giống, 5 năm qua chúng ta đã triển khai được nhiều đề tài phục vụ nhu cầu thiết thực của sản xuất và quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Công tác chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi, giống cây lâm nghiệp đã góp phần quan trọng làm tăng năng suất, nâng cao phẩm chất nông sản phẩm và giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam . Trong 5 năm, năng suất lúa bình quân cả nước tăng 13%, ngô tăng 22%... Bên cạnh đó, do cải thiện được chất lượng nên giá bán các nông sản ở thị trường trong nước và quốc tế cũng tăng đáng kể. Chúng ta đã xây dựng được cơ sở vật chất tương đối đồng bộ, với nhiều trang thiết bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu cho những công trình nghiên cứu đòi hỏi công nghệ cao. Một số phòng thí nghiệm được đầu tư tương đương các nước tiên tiến trong khu vực. Hệ thống nhà kính, nhà lưới, ruộng thí nghiệm cũng được nâng cấp. Cán bộ trình độ cao được bổ sung trên một số lĩnh vực, phần nào giải quyết tình trạng hụt hẫng về nguồn nhân lực trong lĩnh vực chọn tạo giống.
Tuy nhiên, trong thực hiện Chương trình cũng còn một số khuyếm khuyết, tồn tại cần khắc phục, đó là: Các nội dung nghiên cứu chọn tạo giống còn phân tán, thiếu liên kết; còn ít nội dung nghiên cứu phục vụ cho các vùng sinh thái khó khăn như miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên... Chất lượng một số giống chọn tạo chưa cao, có giống còn chưa được sản xuất tiếp nhận, thiếu bền vững trong sản xuất hoặc chưa cạnh tranh được với các giống nhập khẩu. Việc nhập nội một số giống cây trồng không đem lại hiệu quả, do không thích nghi với điều kiện sinh thái, gây thiệt hại cho sản xuất. Công tác quản lý nhà nước về chất lượng giống còn có nhiều yếu kém, nhiều giống khi đưa ra sản xuất không đem lại hiệu quả, thị phần giống tốt được sản xuất sử dụng chưa cao. Trình độ nghiên cứu cơ bản phục vụ chọn tạo giống còn hạn chế. Nhiều tổ chức nghiên cứu và nhà khoa học còn vội vàng đưa ra sản xuất khi giống chưa đủ thời gian khảo nghiệm, làm ảnh hưởng đến sản xuất. Việc chuyển giao kết quả nghiên cứu chọn tạo giống vào sản xuất còn chậm, còn thiếu sự gắn kết giữa đơn vị làm nghiên cứu với đơn vị làm công tác khuyến nông, khuyến lâm, doanh nghiệp sản xuất giống và với cả các chủ dự án cụ thể của Chương trình. Nghiên cứu chọn tạo giống còn tập trung chủ yếu ở tổ chức khoa học của nhà nước, các thành phần kinh tế khác chưa được đầu tư. Tiềm lực KH&CN cho chọn tạo giống còn một số mặt yếu kém: Thiếu cán bộ khoa học đầu đàn, chuyên sâu, nhất là các lĩnh vực ứng dụng công nghệ sinh học; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác này của một số cơ quan còn hạn chế.
Một vài đề xuất
Để chủ động sản xuất được nhiều giống tốt, đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, phục vụ nhu cầu nội tiêu và xuất khẩu, đảm bảo phát triển ngành nông nghiệp bền vững, nâng cao hiệu quả sản xuất, theo chúng tôi, cần lưu ý tới các vấn đề sau:
* Tiếp tục đầu tư kinh phí xây dựng và nâng cấp các phòng thí nghiệm để có khả năng nghiên cứu tốt hơn các vấn đề có liên quan đến chọn tạo và sản xuất giống cây trồng nông, lâm nghiệp và giống vật nuôi. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực cho các đơn vị làm công tác giống. Xây dựng và thực hiện các hướng ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống, bảo tồn quỹ gen.
* Tiếp tục đầu tư cho chương trình khuyến nông, khuyến lâm; phát huy mối liên kết giữa cơ quan chọn tạo giống với mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm trong cả nước.
* Tập trung nghiên cứu phát triển công nghệ chọn tạo, sản xuất giống đối với những đối tượng có lợi thế thị trường, những đối tượng nuôi trồng mới có giá trị và chú ý các đối tượng bản địa để làm phong phú mặt hàng xuất khẩu, giảm bớt rủi ro khi bệnh dịch xảy ra.
* Nhập nội giống phải bắt buộc qua khâu khảo, kiểm nghiệm, kiểm tra, kiểm soát nhằm đảm bảo an toàn cho sản xuất.
* Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia công tác chọn tạo giống. Tăng cường công tác quản lý đối với việc sản xuất, nhập nội, kinh doanh giống.
Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, số 7/2006