Khảo cổ học cộng đồng: Mô hình còn bỏ ngỏ ở Việt Nam
Khái niệm khảo cổ học cộng đồng, còn được một số người hiểu và trao đổi với một quan niệm mang tính giễu cợt và hài hước hơn, đó là việc nhân dân làm khảo cổ học ở Việt Nam, chẳng những đông đảo mà còn ngóc ngách tới từng làng quê, ngõ xóm. Họ đào bới những di chỉ, mộ táng lấy đi nhiều di tích, di vật có giá trị, đem bán chui lủi tại các thị trường chợ đen tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, và nhiều thập niên gần đây, xuất hiện đầu nậu ở mỗi địa phương làm trung gian bán, mua những di vật ấy cho các con buôn cỡ lớn, phạm vi không chỉ trong nước mà còn vươn ra khỏi biên giới, nhằm kiếm lời, khiến cho nha phiến, bất động sản, lợi nhuận cũng không sánh kịp. Tôi đã co lần dẫn đạo diễn Đỗ Minh Tuấn đi tìm một cảnh quay cho một bộ phim do anh đạo diễn, kinh hoàng và rùng rợn, khi hàng loạt người dân tộc Mường (Hòa Bình) dàn hàng đào bới chính những ngôi mộ tổ tiên, cha ông họ, khiến cho cả một thung lũng Mường Thăng, huyện Kỳ Sơn, như vừa trải qua một trận chiến B52, loang lổ và đỏ quạch đất Bazan, với những huyệt mộ sâu hoắm, cùng nhiều đồ gốm sứ rải rác vứt trên miệng hố - đồ vật được coi là không có giá trị kinh tế, nhưng với bảo tàng, với khảo cổ học thì vô cùng giá trị, làm tôi phải gắng công liên hệ, thu về cho bảo tàng hàng trăm di vật, để gần đây nhiều trong số ấy được chọn lựa sang Mỹ, sang Nhật trưng bày về lịch sử văn hóa Việt Nam. Những ngôi mộ ấy có niên đại đời Lý, thời Trần, thời Lê… gắn liền với câu chuyện Đẻ đất đẻ nước,một sử thi, một trường ca hiếm hoi của dân tộc Mường, cùng nhiều truyền thuyết, ảnh xạ lịch sử của một thời quan hệ gốc rễ Mường - Việt và những câu chuyện đầy chất tâm linh, gắn với những hòn mồ, chất chứa tín ngưỡng cự thạch tàn dư… sẽ vô cùng lý thú để phát triển du lịch sinh thái, tâm linh, lịch sử, văn hóa - trên một tuyến thủy điện Hòa Bình - Mai Châu đầy tiềm năng mà khu mộ ấy nằm liền kề quốc lộ, hấp dẫn biết nhường nào, nhưng giờ đây, chúng đã bị xóa sổ trên bản đồ Khảo cổ học Việt Nam.
Rất nhiều, rất nhiều những di tích cổ tương tự đã được cái gọi là “Khảo cổ học nhân dân”, theo quan niệm hài hước ấy phá hủy và giờ đây, dường như vẫn chưa ngưng nghỉ, thậm chí còn tràn sâu vào lăng tẩm, nền cũ của đền đài, cung điện, cho dù luật Di sản Văn hóa đã có hiệu lực gần một thập niên, chứng tỏ một sự kém hiệu quả của văn bản pháp luật và cách quản lý của chúng ta. Đã có rất nhiều nhà khảo cổ học than rằng, sau nhiều chục năm nữa, không biết lấy đâu ra những di chỉ nguyên vẹn để nghiên cứu? Cũng có nhiều nhà quản lý cho rằng, những hành vi đào bới bừa bãi diễn ra dài lâu và đậm đặc ở các địa phương nhưng chưa có một điển hình nào bị truy tố, hầu tòa? Đã có một ranh giới - năm ra đời của luật di sản, để phân định những cổ vật trong sưu tập tư nhân nào, có gốc nguồn khảo cổ học, để không đăng ký, nhưng dường như ranh giới ấy đang bị xóa nhòa, khi công tác đăng ký ở các tỉnh, thành chưa triển khai được bao nhiêu. Tất cả, do chúng ta chưa làm tốt công tác khảo cổ học cộng đồng, thực chất, là định hướng xã hội, đã, đang được Đảng và Nhà nước ta thực hiện, nhưng dường như chưa có mấy hiệu quả, đặc biệt, trong lĩnh vực khảo cổ học ở Việt Nam.
Vậy khảo cổ học cộng đồng là gì? Đó là sự tham gia của cộng đồng vào công tác giữ gìn, bảo vệ, phát huy những di tích khảo cổ học nơi mình cư trú. Họ bảo vệ, giữ gìn những di chỉ khảo cổ học khỏi bị xâm hại bởi những kẻ đào bới, ngụy trang là những nhà khảo cổ nghiệp dư hay đào trộm như ở Việt Nam, mà tôi đã có đôi ba dẫn dụ nêu trên. Họ phát huy những di chỉ ấy từ một loại hình bảo tàng, mà lâu nay ta quen gọi là “Bảo tàng khảo cổ” hay “Bảo tàng ngoài trời”. Đó là những hố khai quật được bảo tàng hóa cùng với một phòng trưng bày tại chỗ, khiêm tốn và vừa phải, trưng bày những di vật khai quật được và quá trình nghiên cứu ở đây, như là một thiết chế văn hóa, do người dân quản lý. Kinh phí hoạt động được trợ giúp từ các dự án của chính phủ hoặc phi chính phủ, được khai thác triệt để từ ý tưởng của các nhà khảo cổ học, của những người quản lý di sản, nhưng việc điều phối nguồn kinh phí ấy thuộc về cộng đồng. Họ thu phí từ khách tham quan, từ những cửa hàng lưu niệm, cửa hàng ăn, khách sạn… được hưởng lợi từ di tích ấy. Họ được sự trợ giúp của chính quyền sở tại về cơ chế để hoạt động được hanh thông… Tóm lại, cộng đồng được làm chủ và được hưởng lợi từ di sản của chính tổ tiên nhiều đời của họ để lại. Trách nhiệm và quyền lợi song hành trong đời sống thường nhật của cộng đồng đưa lại một hệ quả: di tích được bảo vệ và phát huy. Nhà nước trung ương và địa phương chỉ là nhân tố đỡ đầu và khởi đầu sao cho mô hình quản lý cộng đồng phát triển bền vững. Mô hình quản lý này đã được triển khai khá phổ biến ở các quốc gia Đông Nam Á, nhưng để có được một kết quả như hôm nay, họ đã phải triển khai từ nhiều thập niên trước, nhằm giáo dục ý thức cộng đồng, nâng cao dân trí cộng đồng và lòng yêu say của một nhóm người trong cộng đồng đối với di sản, với khảo cổ học để qua họ làm nòng cốt.
Ở Việt Nam chúng ta, khảo cổ học vô cùng phong phú. Loại hình di chỉ cũng vô cùng đa dạng, nhưng mô hình này chưa hề phát triển, trong khi có rất nhiều các di tích, các văn hóa khảo cổ học, đã, đang và sẽ được xếp hạng cấp tỉnh, cấp quốc gia, thậm chí, là di sản văn hóa thế giới. Đó là một thiệt thòi lớn, khiến cho các di tích khảo cổ học Việt Nam chịu nhiều tổn hại khôn lường. Chúng ta cần sớn có mô hình khảo cổ học cộng đồng để quản lý các di tích khảo cổ học ở các địa phương. Vậy mô hình ấy lấy đâu ra? Tất nhiên, đó là mô hình du nhập từ các quốc gia khác. Tuy nhiên, tính đồng bộ để phát triển mô hình ấy một cách bền vững ở các nước Đông Nam Á, buộc chúng ta phải có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước, chứ không nên rập khuôn, máy móc. Hơn thế, chúng ta có thể luận giải từ mô hình cộng đồng quản lý di tích, hiện rất có hiệu quả ở Việt Nam, có lẽ sẽ phù hợp hơn mô hình du nhập. Tôi đã đến thăm nhà thờ ông tổ Đạo Trần ở Long Sơn, Bà Rịa - Vũng Tàu. Ban quản lý ở đó là của dòng họ, được phân công làm đủ các công việc hàng ngày từ vệ sinh, trông nom, đưa dẫn khách tham quan, thuyết minh và thu tiền lệ phí, thậm chí phục vụ khách ăn nghỉ khi có yêu cầu. Hàng ngày có tới 15 người phục vụ tại Nhà Lớn và được luân phiên trong tháng với một lịch phân công khá chặt chẽ và khoa học. Những người làm việc ở đây, có già, có trẻ, nhưng vô cùng chuyên nghiệp trong các khâu, bởi Nhà Lớn đã được dòng họ quản lý từ thời còn chính quyền sài Gòn nên đầy kinh nghiệm qua khá nhiều thử thách được trải nghiệm mà tôi đã được nghe kể. Họ giải tỏa cả một dãy phố để mở rộng Nhà LỚn, nhẹ tênh mà chẳng một đồng đền bù. Họ tu sửa, bảo trì ngôi nhà kiến trúc gỗ ấy thường xuyên mà chẳng cần dự toán. Họ quyên góp tiền của dòng họ và khách thập phương theo nguyên tắc tài chính chặt chẽ nên chẳng có sự eo xèo, phiền muộn. Họ công khai các dân chủ nhưng tập trung vào những bô lão. Họ thết đãi khách bằng sản vật địa phương với thái độ cởi mở, chu đáo còn hơn cả nhân viên khách sạn năm sao. Đó là một mô hình xã hội hóa tuyệt đỉnh mà bài viết này không sao miêu thuật hết, nhưng chưa bao giờ, nhân viên hay nhà quản lý ở đây dùng thuật ngữ này, khi nói về mô hình ấy của họ. Khảo cổ học cộng đồng nên lấy mô hình này để áp dụng vì đã qua thử thách và ngày càng phát triển bền vững. Tuy nhiên, nếu chỉ là việc du nhập hay sao chép thì chắc chắn cũng chỉ có một sản phẩm yếu ớt, còi cọc và chết yểu. Vấn đề là, chúng ta cần có một dự án mang tính đồng bộ, để khảo cổ học cộng đồng được phát triển rộng, khi Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hóa, hẳn tác dụng của nó tới tiến trình này càng có ý nghĩa tích cực hơn.








