Kẽm và sức khoẻ người cao tuổi
Vai trò của kẽm
Kẽm (Zn) cần thiết cho việc tổng hợp protein và hình thành collagen cho mọi tế bào, kể cả làn da và sắc đẹp để được trẻ lâu. Kẽm ngăn chặn sự co cơ (vọp bẻ, chuột rút) và giúp chế tạo insulin ngừa đái tháo đường hoặc làm nhẹ bệnh này ở người có tuổi. Kẽm là một cấu tử trong vô số enzym quan trọng mà gan phải chế tạo hàng ngày: transferase, hydrolase, lyase, isomerase, ligase, oxidoreductase, transcriptase, alcoldehydrogenase, phosphatase kiềm và nhất là superoxide dismutase chống oxy hoá, chống lão hoá, ngừa ung thư…
Kẽm quan trọng cho việc ổn định hệ miễn dịch và máu huyết (giữ nhiều yếu tố vi lượng khác trong máu) và giữ cho sự cân bằng acidbase thể dịch.
Kẽm đặc biệt ảnh hưởng lên sự phát triển và duy trì hoạt động cơ quan sinh dục, nhất là tuyến tiền liệt. Tổng hợp kẽm trong cơ thể từ 2 đến 3g, chủ yếu nằm trong hệ xương, răng, da, lông, tóc, cơ, bạch cầu, gan và cơ quan sinh dục. 70% kẽm của cơ quan sinh dục tập trung ở tuyến tiền liệt, vì thế nếu thiếu thì tuyến này sẽ bị viêm, giống như tuyến giáp viêm (bướu cổ) vì thiếu iod. Có thể nói cứ 2-3 đàn ông trên 50 tuổi sẽ có 1 người bị phì đại (viêm) tuyến tiền liệt vì thiếu kẽm. Triệu chứng sớm như mắc đi tiểu quá nhiều lần, suy nhược sinh dục, chỉ cần bổ sung 15mg kẽm dưới dạng kẽm gluconat mỗi ngày sẽ tránh được. Ở thực vật, kẽm cũng tập trung ở bộ phận sinh dục như phấn hoa, nhuỵ hoa hoặc lá mầm của hột. Vì thế khi xay, chà gạo, đậu đỗ cho trắng mất lớp vỏ lụa và lá mầm thì kẽm bị mất theo cám, nên chúng ta thường bị thiếu kẽm. Người cao tuổi, vì kém hấp thu kẽm nên dễ bị thiếu kẽm hơn.
Nhu cầu kẽm
Nhu cầu kẽm hàng ngày của cơ thể là 0,2mg/kg cân nặng. Trẻ sơ sinh đến 1 tháng tuổi cần 0,8mg/ngày; 1 đến 10 tuổi: 3-10mg; người lớn cần khoảng 10-15mg; mang thai và cho con bú: cần tới 20-25mg (xem bảng 1). Người vận động đổ nhiều mồ hôi có thể làm tiêu hao thêm 3mg kẽm mỗi ngày, vận động viên thi đấu mất thêm 5-10mg kẽm/ngày.
Tác dụng của kẽm
Kẽm là một chất điều hoà tự nhiên chất chuyển vận thần kinh amino-adrenergic và thiếu kẽm sẽ đưa đến rối loạn tập tính. Kẽm giúp mau lành vết thương bên ngoài lẫn bên trong cơ thể (thiếu kẽm thì cơ thể không tự sửa chữa các sai lệch về gen trong tế bào, nên khó lành vết thương, chóng bị lão hoá (mau già), dễ sinh ung thư…). Kẽm giúp phục hồi vị giác bị mất, trẻ ăn ngon miệng. Giúp trị chứng da khô, sừng hóa, da đầu bị nhiều gàu, hói đầu. Kẽm giúp tránh phì đại tuyến tiền liệt, giúp tăng trưởng thể chất và tinh thần ở người lớn, cũng như ở trẻ con, trẻ vị thành niên. Kẽm giúp giảm cholesterol, ngừa xơ vữa động mạch, giúp ngừa và trị những rối loạn tâm thần, giúp giảm thời gian và sự nghiêm trọng của bệnh cảm cúm và các bệnh ngoài da, kể cả mụn và rôm sảy.
Thêm kẽm, sinh tố A, B6 và E sẽ giúp tuyến ức (thymus) vị nhạc trưởng của hệ miễn dịch ngừa hoặc làm mau lành các chứng nhiễm trùng nhất là ở đường hô hấp, cũng như niêm mạc đường tiêu hoá, tiết niệu, sinh dục, ngừa ung thư…
Bệnh thiếu hụt kẽm
Xét nghiệm máu: mức kẽm bình thường là 100mcg/100 ml huyết thanh (dưới 70mcg/100 ml là thiếu kẽm). Biểu hiện sớm nhất là móng tay có bớt trắng, quáng gà, da bị sừng hoá và khô ráp, dễ bị dị ứng, chàm; sinh con dị tật, chậm lớn, rụng tóc, tiêu chảy, dễ nhiễm bệnh hoặc bệnh tái đi tái lại, mụn, nhọt, vết thương lâu lành; biếng ăn; giảm mức testosteron máu, suy nhược tình dục, sinh nhược cơ thể và tinh thần không được minh mẫn, học kém… Có khả năng gây phì đại tuyến tiền liệt ở người trên 40 tuổi, xơ cứng động mạch, suy nhược tình dục, nhất là do phì đại tuyến tiền liệt. Thiếu kẽm, các tế bào không biệt hoá được nên khó tạo ra tế bào mới, người ta mau già cỗi.
Nguồn kẽm trong thiên nhiên
Thịt, cá, gan, sữa bò tươi, trứng, giá sống, đồ biển (nhất là nghêu, sò, ốc, hến), gạo lức, đậu đỗ nguyên hột, phấn hoa, bông bí, thiên lý…
Trong những viên đa sinh tố khoáng chất (xem trên toa nhãn có ghi kẽm hay zinc 5, 10, 15mg…) hoặc viên kẽm gluconat Nazinc…
Những lời khuyên
Bạn cần nhiều kẽm hơn nếu đang uống vitamin B6 liều cao. Điều này cũng đúng cho những ai nghiện rượu hay bệnh đái tháo đường, người chơi thể thao, các vận động viên kể cả người thể dục thể hình.
Đàn ông bị những triệu chứng rối loạn tuyến tiền liệt và cả những người chưa bị mà trên 40 tuổi thì cũng nên bổ túc thêm cho lượng kẽm trong cơ thể được ổn định.
Những người yếu sinh lý, rối loạn cương dương, người già mà bị suy nhược hay tiểu rắt, tiểu nhiều lần nhưng mỗi lần chỉ một ít thì nên bổ sung viên Nazinc, cùng với 200mg sinh tố C.
Nếu phụ nữ bị khó chịu bởi chứng rối loạn kinh nguyệt, có thể thử dùng 15mg kẽm gluconat trước khi dùng cách chữa trị bằng hormon.
Mức độ kẽm trong cơ thể có thể bị giảm bởi tiêu chảy và sự tiêu thụ nhiều chất xơ.
Hãy nhớ, nếu đang tăng kẽm trong chế độ ăn uống của mình, nhu cầu vitamin A (kẽm hoạt động tốt nhất với vitamin A, B6 và phosphor) sẽ tăng theo.
Nếu đang dùng cả sắt và kẽm, thì phải uống cách xa nhau vì chúng có thể gây trở ngại hoạt tính của nhau.
Tóm lại, kẽm là một yếu tố dinh dưỡng thông thường nhưng dễ bị thiếu vì cuộc sống công nghiệp, đô thị hoá. Lưu ý bổ sung kẽm để trẻ con phát triển tốt, người lớn ít bị bệnh, người bệnh mau lành, chậm lão hoá và người cao tuổi sống vui khoẻ. Thiếu kẽm người ta sẽ mau trở thành người cao tuổi trong khi tuổi chưa cao.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 292, 15/9/2005, tr 12 - 13








