Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 21/06/2012 20:54 (GMT+7)

Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu xây dựng Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ ở Việt Nam

1. Quan hệ hợp tác quốc tế trong hoạch định chính sách và xây dựng chiến lược nói chung1

Quan hệ hợp tác quốc tế trong xây dựng chính sách ở Việt Nam tập trung trước hết vào hoạt động của các tổ chức nghiên cứu chiến lược và chính sách (chủ yếu của Nhà nước) và các hoạt động này khá đa dạng về đối tượng và phương thức, từ các viện nghiên cứu nước ngoài, các tổ chức quốc tế đa phương và song phương, tổ chức phi chính phủ đóng tại Việt Nam và nước ngoài, các trường đại học, trung tâm nghiên cứu chiến lược chính sách cho đến các mạng lưới nghiên cứu và đào tạo về chính sách. Các tổ chức quốc tế này bao gồm cả các tổ chức đa phương như Ngân hàng Thế giới, UNDP, ADB, FAO, UNIDO, WHO... và song phương như SIDA - Thụy Điển, CIDA - Canada, DANIDA - Đan Mạch, ACIAR - Úc, IDRC - Canada, SDC - Thụy Sỹ v.v...

Hiện nay, các nhà tài trợ quốc tế đang hình thành một số xu hướng chung cho các chương trình tài trợ (ít nhất là đối với các nhà tài trợ chính) như (1) chuyển từ hỗ trợ trực tiếp cho các dự án phát triển sang tăng cường hỗ trợ cho nghiên cứu và xây dựng chính sách; (2) chuyển từ trực tiếp tiến hành nghiên cứu chiến lược chính sách sang hỗ trợ cho các cơ quan Việt Nam tăng cường năng lực về nghiên cứu và xây dựng chính sách; và (3) chuyển từ hỗ trợ trực tiếp về kỹ thuật sang thúc đẩy cải cách hành chính và thể chế. Những hướng này trong tương lai sẽ tạo cơ hội mới cho các cơ quan nghiên cứu và đào tạo chính sách ở Việt Nam. Một quan hệ hợp tác quốc tế cũng được các Viện khai thác tốt là việc tham gia các mạng lưới quốc tế. Ví dụ như Viện Quản lý Kinh tế trung ương hiện nay đang là thành viên chính thức của 4 mạng lưới: (1) Mạng Phát triển toàn cầu GDN do Ngân hàng Thế giới tài trợ bao gồm các tổ chức chuyên nghiên cứu, tư vấn chính sách công, chi nhánh của mạng này là Mạng phát triển Đông Á; (2) Mạng DAN do một tổ chức của Canada tài trợ gồm có 4 nước Việt Nam, Lào, Thái Lan, và Campuchia; (3) Mạng nghiên cứu kinh tế Vùng Mêkông do Thụy Điển tài trợ; và (4) Hiệp hội nghiên cứu kinh tế Đông Nam Á. Một ví dụ khác, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội là thành viên của mạng lưới các Viện nghiên cứu về lao động của ASEAN do Nhật tài trợ, tiến hành nhiều nghiên cứu chung gắn với chính sách. Ngoài ra, Viện này còn tham gia vào mạng PADI - Phân tích nghèo đói do Ngân hàng Thế giới tài trợ, đến nay đã đi vào hoạt động được 5 năm và có những thành công ban đầu. Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách Khoa học và Công nghệ là thành viên của mạng Chính sách Khoa học Công nghệ Đông Nam Á (Stepan) do tổ chức UNESCO tài trợ.

Mỗi một mạng lưới như trên đều có nhiều loại hình hoạt động nhưng phổ biến nhất là tham gia hội nghị, hội thảo, trao đổi thông tin, tiến hành một số nghiên cứu chung có tính chất khu vực, ngoài ra có thể có một số hoạt động đào tạo. Tuy nhiên, do vẫn còn có phức tạp trong thủ tục cử cán bộ đi hội thảo, tổ chức nghiên cứu, tuyển chọn và sử dụng chuyên gia quốc tế nên một số hoạt động hợp tác quốc tế chưa được khai thác một cách hiệu quả.

Các hoạt động hợp tác quốc tế của mỗi Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách rất đa dạng. Mỗi viện trung bình có một số chương trình hợp tác chính đang tiến hành cũng như các hoạt động hợp tác nhỏ lẻ khác. Trong mỗi Viện, hoạt động hợp tác quốc tế của các bộ phận cũng mạnh yếu khác nhau tùy thuộc nhiều vào năng lực cán bộ của bộ phận đó, chẳng hạn như những bộ phận nào có nhiều cán bộ được đào tạo ở nước ngoài thì hoạt động hợp tác quốc tế có xu hướng phát triển hơn. Có thể thấy rằng, trong một thời gian dài, một số hoạt động hợp tác quốc tế còn mang tính ngắn hạn, hiệu quả chưa cao và ít nhiều chưa chủ động, trong nhiều trường hợp do phía nước ngoài đến chủ động đặt vấn đề hợp tác.

Gần đây, nhu cầu về nghiên cứu chính sách ngày càng lớn đòi hỏi một sự phối hợp ngày càng chặt chẽ giữa các cá nhân và tổ chức nghiên cứu chính sách, xuất hiện ngày càng nhiều các sáng kiến và nỗ lực để liên kết các tổ chức và cá nhân làm công tác nghiên cứu chính sách. Một số chương trình quốc tế đã hỗ trợ thành công cho những cố gắng này và đem lại kết quả ban đầu:

Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF)

Diễn đàn này được thành lập năm 2004 là một nghiên cứu chung giữa Học viện đào tạo quốc gia về nghiên cứu chính sách Nhật Bản (GRIPS) và Trường Đại học Kinh tế quốc dân của Việt Nam. Chương trình này nhằm vào các hoạt động đối thoại giữa các nhà thiết lập chính sách và nhà nghiên cứu thông qua các hội thảo, hội nghị, sách, ấn phẩm, trang web,... Hoạt động này tỏ ra hữu ích cho các cán bộ giảng dạy của các trường và thông qua một số nghiên cứu nhỏ. Trong chừng mực nhất định đã gắn kết với một số cơ quan của Bộ ngành như Bộ LĐTBXH, Bộ CN. Trong khi phản ứng tương đối nhanh với các vấn đề chính sách mới, các hoạt động này chưa đủ sâu về chuyên môn và tác động của nó đến hệ thống xây dựng chính sách của Nhà nước còn hạn chế.

Mạng nghiên cứu kinh tế Việt Nam - VERN

Đây là dự án phối hợp giữa hai đơn vị Viện kinh tế thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và tổ chức IDRC - Canada được xây dựng cách đây gần 3 năm. Với tiêu chí hướng về những vấn đề toàn cầu hóa, nghèo đói, tăng trưởng, mạng lưới này huy động sự tham gia phối hợp của các chuyên gia trong nước và quốc tế vào một số chương trình nghiên cứu. Mục tiêu của chương trình là nghiên cứu những vấn đề phù hợp về chính sách nhưng mục đích của chương trình rộng hơn, bao gồm các sáng tạo khoa học, liên kết các nhà nghiên cứu và tăng cường năng lực cho các nhà nghiên cứu. Thế mạnh của chương trình này là các nghiên cứu do các nhóm nghiên cứu độc lập đề xuất với sự giúp đỡ chu đáo của các chuyên gia quốc tế từ tổ chức, thiết kế nghiên cứu, xây dựng và phương pháp nghiên cứu, đến hỗ trợ lý luận.

Dự án Mispa

Đây là chương trình hỗ trợ của sứ quán Pháp cho Trung tâm thông tin của Bộ NN&PTNT trước đây và nay là Viện Chiến lược chính sách Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chương trình này nhằm hỗ trợ cho việc nghiên cứu và phổ biến các thông tin để hỗ trợ quá trình ra chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn. Thông qua một Quỹ nghiên cứu, các câu hỏi về chính sách được các nhà lập chính sách của Bộ NN&PTNT nêu lên, tổ chức đấu thầu cạnh tranh để các nhóm nghiên cứu trong cả nước tham gia trả lời. Nhìn chung, chương trình này có các thế mạnh nghiên cứu của VERN và thế mạnh thông tin của VDF, tuy nhiên khả năng về tăng cường năng lực thì không mạnh bằng của VERN và liên kết với các trường đại học thì không mạnh bằng VDF.

Ngoài những hoạt động trên, còn nhiều các hoạt động tương tự ở các hình thái khác nhau. Đa số các hoạt động loại này dựa trên các dự án quốc tế, gắn với một quỹ về nghiên cứu chính sách.

2. Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu xây dựng chính sách và chiến lược khoa học và công nghệ

Tương tự như các lĩnh vực xây dựng chính sách và chiến lược khác, chính sách và chiến lược khoa học và công nghệ cũng nhận được những hỗ trợ mạnh mẽ từ cộng đồng quốc tế. Trong khuôn khổ bài viết này, xin nêu ra một số ví dụ điển hình.

2.1. Pháp lệnh CGCN và chính sách KH và CN: SAREC (Thụy Điển)

Ngay từ những năm 1980, Thụy Điển đã bắt đầu hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng cơ sở khoa học cho việc ban hành các văn bản chính sách và chiến lược liên quan đến khoa học và công nghệ. Viện Chính sách nghiên cứu (RPI) thuộc Đại học Lund, Thụy Điển với sự tài trợ của Tổ chức hợp tác nghiên cứu với các nước đang phát triển SAREC của Thụy Điển, đã phối hợp với Viện Quản lý Khoa học thực hiện các dự án nghiên cứu. Dự án quan trọng đầu tiên là nghiên cứu về vấn đề chuyển giao công nghệ và kết quả của dự án này đã có những đóng góp vào việc hình thành Pháp lệnh chuyển giao công nghệ vào Việt Nam được Nhà nước thông qua năm 1988 cũng như những đóng góp khác về mặt công nghệ trong nội dung của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987.

Tiếp theo đó, hợp tác giữa hai viện đã được tiếp tục dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm cả việc đào tạo Thạc sĩ về chính sách khoa học và công nghệ tại Thụy Điển. Các nghiên cứu hợp tác này bao gồm các chủ đề về đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, quản lý các tổ chức nghiên cứu và triển khai, nâng cao năng lực công nghệ quốc gia và doanh nghiệp, hệ thống đổi mới và cách tiếp cận đổi mới trong xây dựng chính sách, v.v... Kết quả của những hoạt động này đã được lồng ghép vào việc xây dựng các văn bản chính sách và pháp luật của Viện Quản lý khoa học trước kia và Viện Chiến lược và chính sách KHCN hiện nay như Đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, Phát triển Thị trường công nghệ, v.v...

Một kết quả đặc biệt là chương trình hợp tác này đã dẫn tới hình thành chương trình đào tạo Thạc sỹ về Chính sách khoa học và công nghệ tại Viện Chiến lược chính sách khoa học công nghệ, cho đến nay chương trình này đã đào tạo được hơn 100 Thạc sỹ là cán bộ quản lý KH và CN nòng cốt tại các ngành và địa phương.

2.2. Chiến lược KH và CON NGƯỜI 2010 và sự hỗ trợ của IDRC (Canada)

Năm 1996, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm khi còn là Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và ông Bezanson, Chủ tịch Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế của Canada (IDRC) đã thỏa thuận IDRC sẽ hỗ trợ Việt Nam trong việc tổ chức nghiên cứu tổng quan về hệ thống khoa học và công nghệ Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam đã giao cho Viện Chiến lược và Chính sách KHCN làm đầu mối thực hiện nghiên cứu này cùng với phía IDRC. Phía IDRC đã tổ chức một đoàn công tác gồm các chuyên gia giỏi của nhiều nước và đã đưa khái niệm hệ thống đổi mới quốc gia, trên cơ sở của cách tiếp cận của OECD, đến với các nhà chính trị và hoạch định chính sách của Việt Nam. Đoàn đã làm việc cùng với các chuyên gia phía Việt Nam, trao đổi với hơn 70 tổ chức khoa học, Viện, Vụ và công ty, hiệp hội và trao đổi, phỏng vấn khoảng 320 nhà hoạch định chính sách, những người thực thi chính sách và những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách Việt Nam. Năm 1998, báo cáo của đoàn công tác với tên gọi Vietnam at the Crossroadđã được IDRC xuất bản.

Mặc dù báo cáo này không được xuất bản bằng tiếng Việt, trong giai đoạn 1998 - 2002, báo cáo này đã được trao đổi, thảo luận, bàn cãi trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách của Việt Nam. Rất nhiều kết quả nghiên cứu của dự án hợp tác này, đặc biệt là 17 kiến nghị cụ thể đã được các giới có liên quan nghiên cứu kỹ, trao đổi và sau này đã đưa vào thực hiện thông qua nhiều văn bản, chính sách của các Bộ như Khoa học và Công nghệ, Kế hoạch và Đầu tư... Kết quả quan trọng nhất của đề án này là những ý tưởng, cách tiếp cận và kiến nghị cụ thể đã đóng góp vào cho một số công việc của Bộ Khoa học và Công nghệ như Đề án Chiến lược Khoa học và Công nghệ tới năm 2010, Đề án Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ... Trải qua một giai đoạn “tiếp thu”, đến nay, nhiều kiến nghị cụ thể đã trở thành hiện thực (xem Phụ lục kèm theo). Tất nhiên không thể nói rằng tất cả những thay đổi về khoa học và công nghệ hiện nay ở Việt Nam đều do những kiến nghị của đoàn công tác mang lại, nhưng có thể nói rằng, nhiều ý tưởng đã bắt đầu từ những trao đổi và làm việc với các chuyên gia của đoàn.

2.3. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội UNDP/UNIDO

Năm 2000, Bộ Kế hoạch và đầu tư xây dựng chiến lược kinh tế xã hội tới năm 2010 và đã thực hiện một số nghiên cứu với sự hỗ trợ của UNDP, UNIDO và SIDA. Những nghiên cứu này cần được thực hiện như là đóng góp về cơ sở khoa học cho việc chuẩn bị báo cáo cho đại hội Đảng năm 2011. Nghiên cứu này bao gồm năm hợp phần trong đó hợp phần về chiến lược khoa học, công nghệ và công nghiệp do một nhóm chuyên gia hỗn hợp của quốc tế và Việt Nam cùng thực hiện. Hai chuyên gia của nhóm IDRC trước đây đã được mời lại để tổ chức nghiên cứu này. Để đảm bảo tính liên tục và thực tiễn của những nghiên cứu, một cán bộ của Viện Chiến lược và chính sách khoa học công nghệ cũng đã tham gia nhóm công tác (tác giả bài viết này). Một cách tiếp cận kết nối khoa học và công nghệ với sản xuất công nghiệp, lồng ghép hoạt động nghiên cứu gần hơn với thực tế của sản xuất đã được quán triệt trong nghiên cứu. Kết quả của nghiên cứu này cả về phương pháp luận cũng như những kiến nghị thực tiễn như vấn đề hỗ trợ đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển công nghệ cho nông nghiệp và vấn đề công nghệ cao đã có đóng góp thiết thực vào việc xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta (Bezanson et al, 2001).

2.4. IDRC hỗ trợ xây dựng chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về KH và CN

Năm 2002, Vụ HTQT của Bộ Khoa học và Công nghệ đã yêu cầu IDRC hỗ trợ trong việc thực hiện một số nghiên cứu phục vụ cho xây dựng Chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ, một nhiệm vụ của Chính phủ giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ. Một tổ công tác hỗn hợp đã được thành lập với thành phần gồm các chuyên gia của Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ, và Canada. Nội dung những nghiên cứu và khảo sát của tổ công tác bao gồm hàng loạt vấn đề quan trọng của hợp tác và hội nhập quốc tế trong KH và CN, ví dụ như chính sách đổi mới, tài chính và phát triển nguồn nhân lực, liên kết và hỗ trợ doanh nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý hợp tác, liên kết hợp tác với đầu tư nước ngoài và viện trợ phát triển... Những kết quả của nghiên cứu này đã được dùng như những cơ sở khoa học nền tảng cho đề án.

2.5. Các hoạt động khác: Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan và Chương trình Kinh tế chất thải do CIDA tài trợ

a. Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan (VNRP)

Đứng trước yêu cầu ngày càng lớn về các nghiên cứu phục vụ lập chính sách và phát triển, Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, với sự tài trợ của Chính phủ Hà Lan, đã thực hiện Chương trình Nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan trong vòng 10 năm (1994 - 2004). Chương trình này nhằm gắn hoạt động nghiên cứu phục vụ chính sách với hoạt động đào tạo một đội ngũ cán bộ nghiên cứu trẻ có năng lực cho tương lai. Kinh phí nghiên cứu được giao hoàn toàn cho phía đối tác Việt Nam quản lý. Một Hội đồng chỉ đạo được thành lập gồm đại diện các nhà khoa học và quản lý đầu đàn của Việt Nam. Hội đồng này chọn ra các định hướng nghiên cứu, quyết định đề án được lựa chọn và đánh giá kết quả đề án. Nhằm hỗ trợ cho hoạt động này, các chuyên gia tư vấn chuyên ngành được huy động cho từng lĩnh vực cụ thể. Thông tin về đối tượng, mục đích, phương pháp đấu thầu, cách thức tham gia được thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trải qua 10 năm hoạt động, chương trình đã thu hút rất nhiều các đề án nghiên cứu trong cả nước của nhiều Viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan từ Trung ương đến địa phương. Các đề tài này phần lớn gắn chặt với yêu cầu thực tế và thực tiễn. Hàng năm, chương trình tổ chức các lớp ngắn hạn về phương pháp và kỹ năng nghiên cứu, nhiều hội thảo giữa kỳ và cuối kỳ và các hoạt động hỗ trợ tại chỗ của các nhóm chuyên gia, góp phần tăng cường năng lực cho các cán bộ nghiên cứu trẻ. Các hội nghị trình bày kết quả nghiên cứu được sự tham gia rộng rãi của nhiều cán bộ làm chính sách và bằng tài liệu được công bố và sử dụng khá rộng rãi. Do phải vượt qua nhiều khó khăn trong việc tạo lập đội ngũ xây dựng chính sách ở Việt Nam nên chương trình này chỉ đến cuối dự án mới đạt được những kết quả nghiên cứu với chất lượng đạt tiêu chuẩn. Tuy nhiên, chương trình này đã tạo được tiếng vang, thay đổi đáng kể không khí nghiên cứu chính sách và tác động tích cực đến việc đổi mới nghiên cứu khoa học.

b. Chương trình nghiên cứu Kinh tế chất thải

Chương trình kinh tế chất thải phục vụ kinh tế thông qua phát triển năng lực quản lý tổng hợp chất thải ở Việt Nam - Lào - Campuchia (2000 - 2004) do Tổ chức phát triển quốc tế Canada (CIDA) hỗ trợ. Mục tiêu dự án nhằm đào tạo và chuyển giao kiến thức về kinh tế chất thải cho 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Nội dung hoạt động của dự án bao gồm:

Đào tạo, chuyển giao kiến thức về lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu, quy hoạch và quản lý, các công cụ kinh tế, các vấn đề xã hội trong kinh tế chất thải.

Nghiên cứu về chất thải hữu cơ, chất thải công nghiệp, quy hoạch bãi chôn lấp chất thải đô thị; tín dụng nhỏ cho hoạt động thu gom, xử lý chất thải; truyền bá phổ biến kiến thức cho đối tượng phụ nữ và trẻ em thu gom rác.

Xây dựng chương trình giảng dạy và đào tạo nhân lực cho thực hiện chương trình thông qua hợp tác với một số đối tác tham gia ở Việt Nam.

Đào tạo sau đại học (Ph.D và Master) về kinh tế chất thải ở Canada hoặc các nước ASEAN nhằm đảm bảo nhân lực được đào tạo về kinh tế chất thải làm hạt nhân trong nghiên cứu và đào tạo về kinh tế chất thải ở Việt Nam.

Tạo khả năng và cơ hội nghiên cứu cho sinh viên Canada về các vấn đề quản lý chất thải ở Việt Nam. Cung cấp tư liệu nghiên cứu cho nội dung giảng dạy đại học và cao học ở Đại học Toronto, Canada.

Trao đổi kiến thức và kinh nghiệm về kinh tế chất thải giữa các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách của các nước đối tác và các nước Đông Nam Á thông qua khảo sát, hội thảo.

Thông qua những hoạt động này, các kết quả của dự án đã cung cấp cả năng lực cũng như những kinh nghiệm thực tế cho việc xây dựng các chính sách và văn bản luật pháp liên quan đến môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường, một bộ phận có tiền thân từ Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.

Gần đây hơn, UNIDO tiếp tục hỗ trợ Bộ Khoa học và Công nghệ một dự án sử dụng phương pháp Foresight (Nhìn trước) để xác định ưu tiên, chọn lựa công nghệ phục vụ cho xây dựng Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới của giai đoạn mới 2011 - 2020. Mặc dù đã được giới thiệu vào Việt Nam khá sớm, đây là lần đầu tiên, một phương pháp nghiên cứu hiện đại được vận dụng vào một nhiệm vụ cụ thể của xây dựng chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, một số hoạt động hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, Viện Ngân hàng Thế giới (WBI), Viện Ngân hàng Phát triển châu Á (ADBI), OECD, Chương trình đối tác về đổi mới của Phần Lan đã và đang có những tiếp xúc, chuẩn bị cho những hoạt động hỗ trợ có liên quan đến chính sách và chiến lược khoa học và công nghệ.

III. Kết luận

Kinh nghiệm ở nước ta trong việc sử dụng hợp tác quốc tế trong việc hỗ trợ xây dựng chiến lược và chính sách nói chung và về khoa học và công nghệ nói riêng cho thấy sự hợp tác này là vô cùng quan trọng. Ngoài những hỗ trợ thông thường về đào tạo, kinh phí và cơ sở vật chất nghiên cứu, hợp tác quốc tế đã cung cấp thông tin, kinh nghiệm, cơ sở khoa học cả về thực tiễn cũng như lý luận, các hệ quan điểm cơ bản, khung phân tích và công cụ nghiên cứu. Đối với những hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực chính sách và chiến lược, những hỗ trợ này có lẽ còn quan trọng hơn cả cơ sở vật chất.

Tuy vậy, có thể nói rằng hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực chính sách và chiến lược không đơn giản. Nó đòi hỏi phía Việt Nam cần phải có những chuẩn bị phù hợp về năng lực, kinh nghiệm và nhất là ngôn ngữ hợp tác nếu muốn quá trình này có hiệu quả. Thậm chí trong nhiều trường hợp, các cán bộ Việt Nam cần phải có cả bản lĩnh và kinh nghiệm công tác khôn khéo, nếu không muốn những nghiên cứu của mình phụ thuộc hoàn toàn và bị lôi kéo theo ý muốn và khả năng sẵn có của đối tác nước ngoài.

Một yếu tố khác cần lưu ý là hợp tác quốc tế trong nghiên cứu chiến lược và chính sách đòi hỏi phải có thời gian cho những kết quả kiểm chứng, và chấp nhận. Việc học hỏi các quan điểm, cách tiếp cận mới là cần thiết và hữu ích nhưng chuyển hóa những kết quả và luận thuyết này vào điều kiện cụ thể của Việt Nam là một việc không đơn giản. Cách tiếp cận về Hệ thống đổi mới nói chung và Hệ thống đổi mới quốc gia nói riêng là một ví dụ. Bắt đầu thâm nhập Việt Nam từ giữa những năm 90, cho đến nay việc vận dụng quan điểm này trong điều kiện Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn thăm dò và tìm hiểu. Kinh nghiệm của hợp tác với IDRC đã cho thấy, nhiều khuyến nghị đã phải chờ một thời kỳ dài để được chấp nhận hoặc hội đủ điều kiện thực thi. Quá trình này có thể gọi là giai đoạn “thích nghi về mặt chính sách” của môi trường.

Điểm cuối cùng, để cho một chính sách mới trên cơ sở của hợp tác quốc tế có chỗ đứng, thông thường cần phải có những cố gắng xây dựng những nhóm cộng đồng cùng chia sẻ quan điểm chính sách mới này, là những người tiên phong, làm vật mang chính sách trong một bối cảnh của cộng đồng và xã hội nhất định./.


Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.