Hội nhập quốc tế về KH&CN: Chất lượng cán bộ KH&CN mang tính quyết định
Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN (Bộ KH&CN) cho biết, số liệu thống kê các tổ chức KH&CN công lập tính đến năm 2010 của Việt Nam có gần 1.500 viện, trung tâm nghiên cứu với gần 2,6 triệu cán bộ làm việc (trong đó có khoảng 60.000 người trực tiếp tham gia công tác nghiên cứu khoa học tại các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp). Hiện tại, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác KH&CN với gần 70 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, thực hiện hơn 80 hiệp định hợp tác KH&CN cấp quốc gia và cấp bộ. Việt Nam đang là thành viên của gần 100 tổ chức quốc tế và khu vực về KH&CN. Viện này cũng cho biết, từ năm 2000 đến nay đã có hơn 500 thoả thuận, hợp đồng hợp tác quốc tế về KH&CN đang được thực hiện, hơn 400 nhiệm vụ nghị định thư đã và đang được triển khai, tiêu biểu như: Việt Nam đã ký hiệp định liên chính phủ về sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình với Liên bang Nga, Trung Quốc và Achentina; tham gia thực hiện các dự án hợp tác kỹ thuật với Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế trong các lĩnh vực: Phân tích hạt nhân, thuỷ văn đồng vị, y học hạt nhân, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực…; ký thoả thuận hợp tác về ứng dụng công nghệ hạt nhân vì mục đích hoà bình với Uỷ ban năng lượng nguyên tử Pháp; tích cực và chủ động tham gia hoạt động với các tổ chức quốc tế về KH&CN với các đối tác như ASEAN, UNESCO, ASEM, APEC…
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KH&CN, Việt Nam đã có tham tán, bí thư phu trách KH&CN tại các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài như Pháp, Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ…do đó đã tranh thủ được rất nhiều nguồn lực (nhân lực, tài chính…) phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao và tiếp nhận những thành tựu mới của KH&CN trên thế giới. Hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN đã được Việt Nam triển khai tích cực trong các thể chế đã phương và thông qua các khuôn khổ song phương, nên đã đi vào chiều sâu và có hiệu quả với chủ trương bám sát các hướng ưu tiên phát triển KH&CN; tranh thủ nguồn lực tiên tiến của các đối tác nước ngoài về tri thức, công nghệ, trang thiết bị, tài liệu và đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ của Việt Nam; tăng cường học hỏi kinh nghiệm và thành quả của các nước đi trước để áp dụng vào thực tiễn của mình để xây dựng chiến lược phát triển KH&CN. Ngoài ra, với việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KH&CN, Việt Nam đã tham gia, chủ trì thực hiện nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế quan trọng: Chủ trì Hội nghị lần thứ 45 của Ủy ban KH&CN ASEAN tại Philippin năm 2003; chủ trì Hội nghị bộ trưởng KH&CN ASEAN; Hội nghị hoá học châu Á; tham gia xây dựng kế hoạch hành động mới của ASEAN cho giai đoạn 2004-2010; tham gia các hoạt động của Trung tâm chuyển giao công nghệ châu Á - Thái Bình Dương…
Để nâng cao hiệu quả, đa dạng hoá các hình thức hoạt động, tăng cường tiềm lực phát triển KH&CN, bên cạnh các mối quan hệ hợp tác đối tác truyền thống, Việt Nam còn chủ động mở rộng mối quan hệ hợp tác với các tổ chức KH&CN trong khu vực và quốc tế: Tăng cường hợp tác với Quỹ khoa học quốc gia, Tập đoàn dữ liệu quốc tế… của Hoa Kỳ; hợp tác nghiên cứu biển với Quỹ nghiên cứu quốc gia Đức; ký chương trình hợp tác nghiên cứu chung với Thuỵ Điển…
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc hợp tác KH&CN của Việt Nam với các đối tác nước ngoài vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như chưa toàn diện, chưa phát huy hết được thế mạnh về tiềm lực tài chính, cơ sở hạ tầng và trí tuệ của tổ chức KH&CN và đội ngũ cán bộ làm công tác KH&CN, trong đó, phải kể đến chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác KH&CN của Việt Nam vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém (trình độ tin học và ngoại ngữ còn hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn hạn chế, chưa có sự kế thừa hài hoà giữa tầng lớp cán bộ làm công tác nghiên cứu có kinh nghiệm với các cán bộ nghiên cứu trẻ, tài chính cho việc đi nghiên cứu và học tập ở nước ngoài còn hạn chế, việc tuyển chọn cán bộ đi học tập và nghiên cứu khoa học còn bộc lộ những bất cập…).
Để giải quyết vấn đề nêu trên, bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ KH&CN bằng việc nâng cao chất lượng đào tạo, tuyển chọn đội ngũ cán bộ… việc tạo điều kiện cho các nhà khoa học có điều kiện để phát huy hết tiềm năng, trí tuệ và sức sáng tạo của mình cho khoa học công nghệ thì việc có cơ chế thoả đáng đối với những người làm công tác KH&CN cần được nghiên cứu và áp dụng một cách bài bản và khoa học. Nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ KH&CN giữa Việt Nam với khu vực và thế giới, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 735/QĐ-TTg phê duyệt “ Đề án hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ (KH&CN) đến năm 2020” nhằm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh trong một số lĩnh vực KH&CN vào năm 2020, phục vụ sụ nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo đó, bên cạnh các mục tiêu quan trọng như: Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách về tài chính phục vụ hội nhập quốc tế về KH&CN; triển khai các chương trình/dự án đã ký kết; huy động tiềm lực cho hợp tác KH&CN; thúc đẩy đổi mới công nghệ thông qua các hoạt động nghiên cứu, tiếp nhận và chuyển giao; hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm, mua bản quyền sáng chế; xúc tiến việc thương mại hoá các kết quả nghiên cứu… thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, cán bộ trực tiếp tham gia nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ là một trong những nhân tố quan trọng, mang tính quyết định sự thành công trong quá trình hợp tác, chuyển giao thành quả KH&CN.
Để làm được điều đó, chúng ta phải nâng cao chất lượng công tác đào tạo ở trong nước, liên kết với các đối tác có tiềm lực mạnh về KH&CN ở nước ngoài để triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về KH&CN để hình thành các nhóm, tập thể KH&CN mạnh, có thể khả năng chủ trì và tham gia các hoạt động KH&CN mang tầm cỡ quốc tế./.








