Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (PRRS)
I.ĐẶC ĐIỂM CỦA PRRS
1.1. Đặc điểm dịch tễ học(Porcine Respirative and Reproductive Sig…)
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (PRRS), còn gọi là bệnh tai xanh, là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, lây lan nhanh, và có thể ghép với các loại mầm bệnh khác, do đó làm ốm và chết nhiều lợn nhiễm bệnh. Hội chứng lần đầu tiên được phát hiện ở Mỹ vào năm 1987, sau đó ở châu Âu và châu Á vào những năm 90. Đến nay chưa có nước nào trên thế giới khẳng định là đã thanh toán được bệnh.
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi của lợn, nhưng tập trung chủ yếu ở lợn nái mang thai và lợn con theo mẹ. Đặc trưng của PRRS là sảy thai, thai chết lưu ở lợn nái chửa giai đoạn cuối; lợn ốm có triệu chứng điển hình như sốt cao trên 40°C – 42°C, viêm phổi nặng, đặc biệt là ở lợn con cai sữa. Bệnh có tốc độ lây lan nhanh, trong vòng 3 - 5 ngày cả đàn có thể bị nhiễm bệnh, thời gian nung bệnh khoảng 5 - 20 ngày. Lợn bệnh thường bị bội nhiễm bởi những bệnh kế phát khác như: dịch tả lợn, phó thương hàn, tụ huyết trùng, E. Coli, Streptococuss suis, Mycoplasma spp., Salmonella, vv...
1.2. Nguyên nhân gây ra PRRS
Nguyên nhân gây ra bệnh tai xanh là do vi rút PRRS thuộc giống Arterivirus, họ Arteriviridae, bộ Nidovirales, có cấu trúc vỏ bọc dạng chuỗi đơn RNA. Hiện nay, dựa vào phân tích cấu trúc gen, người ta xác định được 2 nhóm vi rút, nhóm I gồm các vi rút thuộc chủng châu Âu (tên gọi phổ thông là vi rút Lelystad) gồm nhiều (4) phân nhóm (subtype) đã được xác định. Nhóm II gồm các vi rút thuộc dòng Bắc Mỹ (với tên gọi là VR - 2332). Sự khác nhau về cấu trúc chuỗi nucleotide của vi rút thuộc hai chủng là khoảng 40%, do đó ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch bảo hộ chéo giữa hai chủng.
Qua nghiên cứu giải mãi gen của vi rút tại Mỹ, Trung Quốc cho thấy, các mẫu vi rút gây bệnh tai xanh tại Việt Nam có mức tương đồng về amino axit từ 99 – 99,7% so với chủng vi rút gây bệnh tai xanh thể độc lực cao của Trung Quốc và đều bị mất 30 axít amin. Điều này cho thấy, chủng vi rút gây bệnh tai xanh ở nước ta hiện nay thuộc dòng Bắc Mỹ, có độc lực cao giống Trung Quốc.
1.3. Nguồn bệnh và quá trình truyền lây của PRRS
Vi rút PRRS có trong dịch mũi, nước bọt, phân, nước tiểu của lợn ốm hoặc mang trùng và phát tán ra môi trường. Ở các loại lợn mẫn cảm, vi rút có thời gian tồn tại và được bài thải ra ngoài môi trường tương đối dài, ở lợn mang trùng và không có triệu chứng lâm sàng, vi rút có thể được phát hiện ở nước tiểu trong 14 ngày, ở phân khoảng 28 – 35 ngày, ở huyết thanh khoảng 21 – 23 ngày, ở dịch hầu họng khoảng 56 – 157 ngày, ở tinh dịch sau 92 ngày; đặc biệt ở lợn mắc bệnh sau khi hồi phục 210 ngày vẫn có thể phát hiện vi rút trong máu.
Ở lợn bệnh hoặc lợn mang trùng, vi rút tập trung chủ yếu ở phổi, hạch amidan, hạch lympho, lách, tuyến ức và ở huyết thanh .Đây là những bệnh phẩm cần được lấy để gửi đi chẩn đoán, xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Vi rút có thể phát tán, lây lan thông qua các hình thức: Trực tiếp: tiếp xúc với lợn mắc bệnh, lợn mang trùng phân , nước tiểu, bụi, nước bọt, thụ tinh nhân tạo và có thể do lợn rừng hoặc thậm chí là một số loài chim hoang (vịt trời); Gián tiếp: dụng cụ chăn nuôi, phương tiện vận chuyển và dụng cụ bảo hộ lao động nhiễm trùng. Hình thức phát tán qua không khí (từ phân, chất thải mang vi rút), theo giớ (có thể đi xa tới 3 km) hoặc có thể do một số loài chim hoang được xem là mối nguy hiểm ở trong các vùng dịch.
II. TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH TRÊN THẾ GIỚI
- Từ năm 2005 trở lại đây, 27 nước và vùng lãnh thổ thuộc tất cả các châu lục (trừ châu Đại Dương) trên thế giới đã báo cáo cho Tổ chức Thú y thế giới khẳng định phát hiện có bệnh tai xanh lưu hành.
- Hiện nay, hội chứng này đã trở thành dịch địa phương ở nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước có ngành chăn nuôi lợn phát triển như Mỹ, Hà Lan, Đan Mạch, Anh, Pháp, Đức… và đã gây ra những tổn thất rất lớn về kinh tế cho người chăn nuôi lên đến hàng trăm triệu đô la. Ví dụ: hàng năm Mỹ phải chịu tổn thất cho bệnh tai xanh gây ra khoảng 560 triệu USD. Các nước trong khu vực có tỷ lệ bệnh tai xanh lưu hành rất cao, ví dụ: ở Trung Quốc là 80%, Đài Loan là 94,7% - 96,4%; Philippine là 90%, Thái Lan là 97%, Malaysia là 94%, Hàn Quốc là 67,4% - 73,1%.
- Tại Trung Quốc: Theo báo cáo của đoàn chuyên gia quốc tế và chuyên gia của Trung Quốc đã được phát hành vào tháng 12/2007, kể từ năm 2006, đàn lợn của Trung Quốc đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi “Hội chứng sốt cao ở lợn” do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là vi rút PRRS và các loại mầm bệnh này đã làm hàng triệu lợn bị ốm, chết và phải tiêu huỷ. Kết quả nghiên cứu toàn diện của Trung Quốc đã khẳng định chủng vi rút PRRS gây bệnh tại nước này là chủng độc lực cao, đặc biệt có sự biến đổi ở vi rút (thiếu hụt 30 axit amin trong gen). Năm 2007, các tỉnh Anhui Hunan, Guangdong, Shandong, Liaoning, Jilin và một số tỉnh khác bị ảnh hưởng nặng buộc Trung Quốc phải tiêu huỷ tới 20 triệu lợn để ngăn chặn dịch lây lan.
Trước diễn biến phức tạp của dịch tai xanh, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc đang thực hiện chương trình phòng chống bệnh rất quy mô, riêng chương trình nghiên cứu, sản xuất vắc xin đã được cam kết chi khoảng 280 triệu Nhân dân tệ, tương đương với 36,5 triệu USD.
- Tại Hồng Kông và Đài Loan đã xác định có cả hai chủng châu Âu và Bắc Mỹ cùng lưu hành, đặc biệt trong cùng một con lợn ở Hồng Kông đã xác định nhiễm cả hai chủng nêu trên; dịch tai xanh cũng được thông báo ở Thái Lan từ các năm 2000 – 2007. Thông báo cho biết các vi rút gây bệnh Tai xanh được phân lập từ nhiều địa phương thuộc nước này gồm cả chủng dòng châu Âu và chủng dòng Bắc Mỹ. Trong đó, số vi rút thuộc chủng dòng châu Âu chiếm 66,42%, còn các vi rút thuộc chủng dòng Bắc Mỹ chiếm 33,58%. Phần lớn ở những quốc gia này hiện còn đang lưu hành vi rút gây bệnh tai xanh chủng châu Âu hoặc Bắc Mỹ, là những chủng vi rút cổ điển độc lực thấp.
- Tháng 9/2007, Nga là nước thứ 3 đã báo cáo chính thức có dịch bệnh tai xanh do chủng vi rút PRRS thể độc lực cao gây ra.