Hội An, nôi chữ Quốc ngữ?
Những giáo sĩ dòng Tên đến truyền giáo ở nước ta, các ông đã bắt đầu làm việc ở cửa biển Hội An, Hội An là trung tâm giao dịch thương mại trọng yếu thế kỷ 17, nơi có nhiều quốc gia tới buôn bán.
Bắt đầu là Buzomi người Ý. Năm 1615 cùng đi với một thầy trợ sĩ người Nhật, ông đã cập bến Hội An. Là một giáo sư uyên thâm, ông đã học tiếng Nhật và dự tính đi Nhật, thế nhưng, vì có cấm đạo ở Nhật, ông phải chuyển đi làm việc ở nơi khác, đó là Việt Nam. Ở đây, ông bắt đầu học tiếng Quảng Nam, nhưng vì tuổi đã cao, kết quả không khả quan. Ông viết thư về Macao và xin cho lớp người trẻ tới để tiện việc học tiếng địa phương.
Thế là năm 1617, Macao gửi đi Hội An một người trẻ tuổi, Francesco De Pina người Bồ. Ông học rất thông thạo tiếng Hội An. Sử sách kể lại: ông là người ngoại quốc đầu tiên giao dịch với người Việt Nam mà không cần thông dịch viên, như chúng tôi đã có lần nhắc tới. Hẳn là ông cũng đã bắt đầu soạn một Ngữ pháp tiếng Việt, một Từ vựng tiếng Việtvà một Thánh giáo yếu lí tiếng Việtđể dạy học trò, những giáo sĩ trẻ tiếp tục đến Hội An, đặc biệt có De Fontes và nhất là Alexandre de Rhodes, như sẽ nói sau. Tiếc thay ông đã mất sớm. Ông đã chết đuối ở cửa biển Hội An khi ông đi xuống biển thăm người Bồ cập bến Hội An. Đó là ngày 15 tháng 12 năm 1625.
Năm 1618, có Cristoforo Bori người Ý tới Hội An. Là một nhà thông thái, ông đã soạn một cuốn sách Tường trình về Đàng Trong,soạn bằng tiếng Ý vào năm 1621 và xuất bản ở Ý năm 1631. Trong tác phẩm, ông đã viết lại mấy lời ăn tiếng nói của người Quảng Nam, Hội An rất thích thú, như “ Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam? (Con nhỏ có muốn vào trong lòng Hoa lang chăng?), như “ Dàdèn, Lùt, Dàdèn, Lùt” (Đã đến lụt, đã đến lụt), như “ Da, an, nua, da, an, het” ) đã ăn nửa, đã ăn hết), như “ Tui ciam biet” (Tôi chẳng biết)… Cũng ở Hội An - Quảng Nam, ông đã phác thảo một vài trang về “ Ngữ pháp tiếng Việt”.
Năm 1624, cùng đi với De Fontes tới Hội An, có Alexandre de Rhodes. Cả hai đều là học trò học tiếng Việt với thầy De Pina. Đặc biệt khi De Rhodes học với De Pina, thì cũng học bổ túc với một cậu bé người bản xứ, người Hội An - Quảng Nam đó là Raphael Rhodes. Năm 1626, khi ông được gọi ra Đàng Ngoài thì ông đã rất tinh thông tiếng Đàng Trong, hay tiếng Hội An, tiếng Quảng Nam. Tới cửa Bạng ngày 19 tháng 3 năm 1627, ông đã nói tiếng Quảng với dân chài cửa Bạng và hẳn ông cũng đàm đạo với Trịnh Tráng trên đường đi đánh chúa Nguyễn năm 1627 qua tiếng Hội An. Cho tới khi được nhà chúa đưa về Kẻ Chợ Thăng Long, ông đã mở lớp giảng dạy giáo lí và dĩ nhiên sử dụng tiếng Hội An để nói với người Tràng An thanh lịch. Mặc dầu có người chê ông nói tiếng Quảng trọ trẹ ở đất Kẻ Chợ Tràng An, nhưng làm sao có thể một sớm một chiều thay đổi được giọng nói, nhất là đối với người ngoại quốc.
Cho nên, nếu so sánh thì thấy Gaspar D’Amaral tới Thăng Long vào năm 1630 – 1631, mà viết tiếng Việt giỏi hơn De Rhodes tới Hội An kể từ 1624. Thực ra, hai người, hai môi trường khác nhau, hai giọng nói khác nhau: một người học tiếng Hội An từ năm 1624, một người học tiếng Tràng An sau bảy năm sau, tức từ năm 1630 – 1631.
Trong lời tựa của Từ điển Việt Bồ La 1651, De Rhodes đã phơi bày tâm tư của mình: ông học tiếng Việt với dân cư hai miền đất nước, nhất là ông đã học với De Pina tới Hội An năm 1617 và sử dụng tác phẩm của D’Amảal tới Kẻ Chợ năm 1630 – 1631, từ điển Việt Bồ ngày nay đã thất lạc.
Đọc Ngữ pháp tiếng Việt1651, không thấy ghi ă như một nguyên âm cạnh a, â, nhưng cạnh e và ovới dấu mũ ngửi như một e, ogiả tạo, thí dụ đăọc, dea, toan. Phải chăng đây là giọng nói của Hội An thế kỷ 17?
Trong Từ điển Việt Bồ La 1651, ở nhiều từ, có ghi hai cách phát âm, hai cách đọc, thí dụ: chuọc, tốt hơn chuậc; chuọt, con chuọt, tốt hơn chuật, con chuật; măọc, có người nói mọc; ngăọccó người nói ngọc; rặc răọc, có người nói rọc rọc. Riêng về mấy từ, từ điển ghi hai cách phát âm như đấtvà đết; chânvà chên. Riêng về chữ mình,từ điển ghi một mềnh, giữ mềnh, liều mềnh, mềnh mẩy, nặng mềnh…
Trong Phép Giảng1651, có khi ông ghi chên(chân), dên(dân), đết(đất). Rồi có nhít: ngày thứ nhít, việc nhít, của nhít, phép nhít, nhin(nhân), rứt nhin, nhin thể, nhin đức, nhin nghĩa. Ngoài ra còn một số từ như tháng giâng(tháng giêng), giấng(giếng); buậc(buộc), chuậc(chuộc), chuậng(chuộng), âm dưâng(âm dương), giưầng(giường), nấu nưấng(nấu nướng), mầng(mừng)… Chúng tôi chỉ đơn cử một ít thí dụ.
Tóm lại, lớp người tới Hội An kể từ 1615 cho tới 1624 với De Rhodes, họ đã học tiếng Hội An và ghi theo tiếng Hội An. Nếu trong Từ điển Việt Bồ la 1615, chỉ ghi theo tiếng Tràng An, đất thanh lịch, thì là một thiệt thòi lớn. Từ điển chữ nôm như Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, không ghi được tiếng Quảng Nam đặc biệt này. Những dấu sắc huyền hỏi ngã nặngcũng rất khó phân biệt trong tiếng Quảng. De Pina chỉ tiếng tiếng Quảng, D’Amaral chỉ học tiếng Kẻ Chợ. De Rhodes thì tinh thông tiếng Hội An và được học thêm tiếng Tràng An. Như đã nói, ông học tiếng Hội An với De Pina và với Raphael Rhodes người Quảng Nam, rồi ông đã sử dụng tác phẩm của D’Amaral tinh thông tiếng Kẻ Chợ Đàng Ngoài.
Cho nên, nếu Hội An, các phố cổ Hội An, được nhận làm di sản văn hoá quốc tế, thì Hội An cũng được nhận là “Nôi chữ quốc ngữ”. Ngày nay, khi rảo qua các phố cổ Hội An, vẫn còn như văng vẳng những lời ăn tiếng nói của người Hội An thế kỷ 17, qua những người vào thời kỳ này đã tới đây, những người như Francesco De Pina, như Alexandre de Rhodes, như Raphael Rhodes. Họ đã học đọc, học viết tiếng Hội An theo mẫu tự latinh, để rồi ghi lại bằng văn thư, tác phẩm, còn được lưu truyền cho tới ngày nay. Chúng tôi không quá lời khi viết: Hội An, nôi chữ quốc ngữ.
Nguồn: Xưa và Nay, số 81B tháng 11 năm 2000







