Hoa văn trên vải dzèng của người Ta-ôi
Tài hoa kỳ diệu đó đã được người Ta-ôi hình dung qua mấy câu dân ca sau:
“Úp bàn tay trái đã nên nét hoa lan
Ngửa bàn tay phải đã thành bông hoa chuối
Ngồi xổm thêu được hình con chim én
Ngồi nghiêng quay sợi thành bông gạo, bông lau”(Theo “Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên”)
Khi nói về loại y phục truyền thống này của người Ta-ôi, các nhà nghiên cứu đã mô tả rất rõ: “Trong cách phục sức, sản phẩm để mặc chủ yếu là do trao đổi trong phạm vi nội tộc. Đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Nhóm Tà Uốt ngày trước phụ nữ thường quấn một loại váy dài (A dơ) phủ từ ngực đến chân. Nhóm Pacôh thường mặc váy ngắn hơn vì nửa thân trên mặt áo dài (A dã)” (Theo sách đã dẫn).
Theo sự mô tả đó của các nhà nghiên cứu thì ngày nay người Ta-ôi vẫn còn bảo lưu vốn văn hoá cổ truyền trong đời sống của mình. Không những thế, họ còn phát triển một bước tinh tuý hơn. Váy và khố ở đây được làm tử sản phẩm dệt dzèng. Đây là một nghề, một sản phẩm thủ công nổi tiếng của đồng bào Ta-ôi. Khi nói đến vải dệt dzèng, người Ta-ôi có truyền thuyết. Bà Căn Pơ Nu sau khi học ở trên trời rất nhiều nghề, khi về lại trần gian đã bày cho các thiếu nữ ở nơi đây nghề dệt để họ có áo mặc, váy và khố nhằm chống lại cái giá rét của mùa đông và sương núi.
Vải dzèng được hình thành trên cơ sở quy tụ nhiều nguyên liệu, trong đó chủ yếu là cây bông sợi ( ka pas), cây râm ( ta tư am), vỏ xoắn ốc ( i ra), củ nâu ( a chat), dây đằng đằng ( in rak). Những nguyên liệu này đều có từ rừng và các suối, sông.
Dưới bàn tay tài nghệ của người thợ dệt, cả hai loại váy và khố đều được hình thành các phức hệ hoa văn trang trí. Thế giới hoa văn trang trí ở đây đều có ý nghĩa riêng của nó. Áo và váy được trang trí nhiều hoa văn hơn mà lại thanh thoát, mềm mại, uyển chuyển. Còn khố thì chỉ trang trí giản đơn nhưng toát lên được tính chất khoẻ mạnh, rắn chắc của người đàn ông.
Phối trí hoa văn chủ yếu trên vải dzèng là những hạt cườm, gọi là arak/alùng. Những hạt arak/alùng này được người Ta-ôi sử dụng từ 3 nguồn chính:
Trước đây đồng bào sử dụng hạt cườm bằng chì do tự nấu mà ra. Chì đem về nấu chảy, dùng a bung (cái vá) múc chì nóng chảy lên một tảng đá, dùng que tách chì ra từng hạt nhỏ (bằng hạt phân đạm urê), sau đó lấy vật tròn, dẹt (như nắp xoong) lăn tròn để tạo dáng, dùng que có đầu nhọn chọc lỗ và cho ngâm vào một chậu nước để làm nguội.
Có loại hạt cườm lấy từ hạt cây a rạc bọc, mọc rất nhiều ở rừng hoặc các bụi rậm. Loại cây này có hạt như hạt tiêu, khi phơi khô hạt trở nên rất cứng và người ta tạo một lỗ ở trên hạt để luồn chỉ hoặc sợi.
Ngày nay, nhờ vào sự phát triển của cơ chế thị trường, họ có thể mua hạt cườm tại các chợ. Ở đây, những hạt cườm được bán theo kilô, có đóng gói cẩn thận, hạt bằng nhựa cứng, có lỗ ở tâm và đầy đủ các màu, rất dễ sử dụng, và cũng nhờ đó mà người thợ dệt đỡ phải mất thời gian tìm kiếm hạt cườm như trước đây.
Dù hạt cườm được chế tác bằng chất liệu gì đi chăng nữa thì người Ta-ôi cũng phản ánh được thế giới quan và nhân sinh quan của mình qua những hoa văn rực rỡ trên vải dệt dzèng. Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi thì có gần 100 hoa văn khác nhau trên trang phục của người Ta-ôi. Phần lớn là những biểu tượng về thiên nhiên, vũ trụ, con người, động vật, thực vật và đồ vật. Mỗi hoa văn đều mang ý nghĩa riêng của nó và góp phần vẽ nên nét hoa văn chung trong mỹ thuật Ta-ôi.
Để trang trí trên y phục, người thợ dệt Ta-ôi đã sử dụng 3 mô đun chủ yếu là: hình tam giác(với 4 bố cục khác nhau); hình thoi(với 2 bố cục ngang và dọc); đoạn thẳng(với 2 nét dọc và ngang).
![]() |
| Trang trí hoa văn hạt cườm trên mặt váy nữ Ta-ôi |
Đối với người Ta-ôi, các con vật đều có ý nghĩa rõ nét trong đời sống văn hoá tâm linh, bởi theo truyền thuyết thì tổ tiên của người Ta-ôi là những con vật nên trong nếp thờ cúng của mình, đồng bào có tục thờ vật tổ. Chính vì bái thời các loài vật nên hoa văn trên vải cũng có một số loại động vật như: ta ga dang(con nhện), băng bộc(con bướm), a xiếp(con dơi), a bung(con nòng nọc), a chỉ(con chim trĩ), llang nga(chim thiên nga), hoặc những biểu trưng của con vật như a rết a xiu(hình xương cá), tapat ân troi(dấu chân gà), chi doang a vang(đuôi chim én), cho pos ân troi(cựa gà trống), ki mang tring(răng diều hâu)…
Trong kho tàng truyện cổ Ta-ôi, cũng như động vật, cỏ cây là một trong những vật giúp cho cuộc sống cộng đồng. Người Ta-ôi đã được thần trời ban cho những giống cây để gieo trồng như: chuối, bầu, bí, bắp… và cũng chính từ đó, qua bao thế hệ, người Ta-ôi đã gắn bó với thiên nhiên xung quanh. Điều này đã được các nghệ nhân dệt Ta-ôi đưa vào trang trí trên y phục với những hoa văn tuyệt vời như: ta vạt(cây đoác dùng để làm rượu), pitkcao(trái cây đoác), in rak(cây đằng đằng), tôm an long(cây đậu leo), pir ka cho(cây mua), tri chut(cây nấm), tri sot(cây nấm rơm), a băng a bung(cây măng dang), pi li pit(cây cam), a ưm(cây bắp), pa rơ mơ pa cam(cây đậu cô ve)…
Khi tiếp xúc với hoa văn đồ vật, người ta thấy từ các vật dụng nhỏ nhất, đơn giản nhất, rẻ tiền nhất đến những vật dụng lớn, vật dụng có giá trị nghệ thuật hay giá trị kinh tế… đều được người Ta-ôi quý trọng và không phải ngẫu nhiên mà các thiếu phụ Ta-ôi lại đem trang trí trên vải. Điều này nhằm thể hiện một sự phóng túng trong ý nghĩa của việc ưa trang trí, trưng bày cái hiện hữu chân thật của dân tộc mình qua những hoa văn kỳ lạ và đẹp mắt như: rèng rông (nhà rông), kring rông, (lan can nhà rông), ơ po ra ơ po rit(hàng rào của một ngôi nhà), a ra ta(cầu thang lên nhà sàn), đing ca tinh(dây thắt lưng), a rơ bưu(bếp lửa đang cháy), chi rông(cầu đơn, một cây gỗ bắc qua suối), khêl(cái mâu)…
Trong hoa văn trang trí trên trang phục ở đây biểu tượng con người hiện nay chỉ có một môtíp với tên gọi răm/ngai za zaphoặc ngai răm tức là người nhảy múa trong lễ hội. Tuy chỉ có một nhưng ở đây đã đại diện cho tất cả các ý tưởng, việc làm, vật dụng hàng ngày đã được các thợ dệt phối trí trên dzèng. Và tuy chỉ có một nhưng đó lại là biểu tượng của con người có sức mạnh vạm võ (đàn ông), uyển chuyển và mềm mại (đàn bà), sẵn sàng thích nghi với cuộc sống, chống lại thú dữ, đối phó với sức mạnh của thiên nhiên.
Trong cuộc sống cộng đồng, người Ta-ôi khao khát có sự giao hoà giữa trời, đất và con người cho nên mới có tục đâm trâu, lễ cầu màu, tục cúng các vị thần lúa, thần đất, thần núi, thần rừng…
Theo quan niệm của người Ta-ôi thì vũ trụ bao la, trời đất là cha mẹ đã tạo ra tổ tiên họ, vì thế trong hệ hoa văn về thế giới quan có những hoa văn pa puốc (ngôi sao rua), meenh cha chung (ngôi sao bắc đẩu, trmoq pakoom (sự tương hợp giao hoà giữa con người với thiên nhiên)…
Hoa văn trang trí trong dệt dzèng của người Ta-ôi đã minh chứng được sự phóng túng của tộc người họ xưa và nay. Ở đó, họ đã nói lên được ý tưởng của mình từ trong lối sống cộng đồng, là một bức tranh toàn cảnh phác thảo về văn hoá của dân tộc Ta-ôi.
Với kỹ xảo chèn cườm và khả năng chèn cườm cùng với việc pha màu phối sợi ngũ sắc (xanh, đỏ, vàng, tím, hồng) đã làm cho tấm vải dệt dzèng càng thêm rực rỡ. Với 3 mô đun chính là hình tam giác, hình trái trám và đoạn thẳng, với đầu óc giàu trí tưởng tượng, người thợ dệt đã không làm cho các nét hoa văn nghèo đi về nội dung hoặc là sự lặp lại nhàm chán các môtíp đó, mà ngược lại, họ đã thổi vào mặt vải sự sống của con người, cây cỏ, chim muông và cả vũ trụ mà họ quan sát thấy và tưởng tượng ra.
Ngày nay, các dự án bảo tồn và phát triển nghề dệt dzèng của đồng bào Ta-ôi là tín hiệu vui mừng để những chủ nhân của nó có dịp thể hiện tài canh cửi, chèn hoa văn, mang hơi thở văn hoá của dân tộc mình sánh cùng với các phức hệ hoa văn trong cộng đồng văn hoá các dân tộc Việt Nam.
Nguồn: Dân tộc và Thời đại, số 80, 7/2005, tr 7, 8, 17









