Hai điểm yếu của nông nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Cơ cấu cây trồng bất cân đối
Từ bao đời nay, lúa vẫn là cây nông nghiệp độc canh của Việt Nam, thu hút mức độ đầu tư rất cao về nhân sự, nghiên cứu, đất đai, cơ sở tổ chức, lao động và tài chính. Nhưng điểm yếu của phương thức độc canh này là dễ dàng phát sinh bệnh hại, dẫn đến việc phải phun xịt một lượng rất lớn thuốc bảo vệ thực vật, làm ô nhiễm nông sản và ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của người sử dụng thuốc cũng như người tiêu dùng thực phẩm. Đồng thời, việc chú trọng quá nhiều vào lúa gạo cũng khiến nông nghiệp Việt Nam không thể khai thác hiệu quả nguồn lợi từ thị trường quốc tế dành cho một số nông sản khác, đặc biệt là rau củ quả - trên thế giới thị trường rau, hoa quả có giá trị lớn gấp 7 lần so với thị trường gạo.
Tình trạng bất cân đối cơ cấu cây trồng trên đây không chỉ do Việt Nam chưa có định hướng phát triển phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường thế giới, mà còn do người nông dân và các doanh nghiệp vẫn phải đối diện với nhiều rủi ro nên không dám đầu tư vào những ngành xuất khẩu đòi hỏi đầu tư công nghệ cao và có hệ thống như rau, hoa quả, chỉ tập trung sản xuất các mặt hàng nông phẩm thô như với lúa gạo, cà phê hay chè. Chính sách đất nông nghiệp chỉ cho phép sử dụng có thời hạn cũng làm tăng rủi ro cho người sử dụng đất, càng khiến các doanh nghiệp trong và ngoài nước không mặn mà với việc đầu tư có chiều sâu cho công nghệ cao trong nông nghiệp.
Vì vậy, kể cả sau khi gia nhập WTO, tổ chức thương mại có kim ngạch nhập khẩu nông sản trị giá hàng nghìn tỷ USD, Việt Nam đã xuất khẩu được nhiều hơn các sản phẩm gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, và sắn, nhưng lượng xuất khẩu các mặt hàng rau, hoa quả vẫn gần như ở mức yếu nhất.
Bảng 1. Thị trường nhập khẩu thế giới và một số mặt hàng nông sản xuất khầu chủ lực của Việt Nam. (Nguồn: FAO, http://unstats.un.org/unsd/default.htp )
Mặt hàng | Thị trường nhập khẩu thế giới, USD 2010 | Xuất khẩu Việt Nam, USD | ||||
2006 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | ||
Rau quả | 97,900,226,000 | 300,000,000 | 420,000,000 | 411,500,000 | 515,000,000 | 770,000,0006) |
Hoa | 25,000,000,000 | 10,000,000 | 14,200,000 | 60,000,000 | 60,000,000 | N/A |
Lúa gạo | 16,818,180,0001) | 1,489,970,000 | 2,600,000,000 | 3,230,000,000 | 3,700,000,000 | 3,700,000,000 |
Cà phê | 7,548,041,000 | 1,911,463,000 | 1,800,000,000 | 1,670,000,000 | 2,300,000,000 | 3,740,000,000 |
Cao su | 7,488,707,000 | 1,400,000,000 | 1,200,000,000 | 2,320,000,000 | 2,700,000,000 | 2,850,000,0005) |
Chè | 4,369,975,0001) | 130,833,000 | 180,000,000 | 200,000,000 | 182,000,000 | 243,000,0004) |
Hạt điều | 1,719,352,0002) | 653,863,000 | 850,000,000 | 1,140,000,000 | 1,400,000,000 | 1,480,000,000 |
Sắn | N/A | N/A | N/A | N/A | 815,000,0007) | 1,312,020,000 |
Hạt tiêu | 1,761,363,600 | 271,011,000 | 328,000,000 | 390,000,000 | 775,000,000 | 802,000,000 |
Thế giới | 1,361,853,000,0003) | 8,300,000,000 | 15,300,000,000 | 19,150,000,000 | 25,000,000,000 | 27,310,000,000 |
1) Thị trường năm 2009, Trade Vietnam
2) Thị trường năm 2009, FAO
3) Thị trường thế giới năm 2006
4) Hiệp hội Chè Việt Nam VITAS, 2012
5) www.caosu.net
6) Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền nam – www.iasvn.org
7) Dữ liệu của 10 tháng đầu năm 2011
N/A: Chưa có số liệu
Chuỗi ngành hàng không đồng bộ
Hiện nay chúng ta đã có một số thành công trong công nghệ cao về tạo giống và cải thiện trong phương pháp canh tác: đã có nhiều giống lúa, ngô, cà phê, v.v có năng suất cao, chống sâu bệnh tốt; đã có nhiều mô hình trồng rau dùng màn che, phủ luống, trồng cà phê áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt hoặc hệ thống tưới phun có hiệu quả; đã áp dụng chế phẩm sinh học EM (Effective Microoganisms) đại trà nhiều nơi để thay thế thuốc bảo vệ thực vật và phân bón vô cơ. Nhờ những công nghệ mới này mà lúa gạo đã được trồng trên những cánh đồng lớn, cơ giới hóa, đưa sản lượng tăng cao đáng kể, từ 19 triệu tấn năm 1990 lên 32 triệu tấn năm 2000 và 42 triệu tấn năm 2011.
Tuy nhiên, vì chưa xây dựng được chuỗi ngành hàng xuyên suốt và đồng bộ, nên khi sản lượng lúa gạo đạt đỉnh thì chúng ta gặp những khó khăn như thiếu kho tàng để tạm trữ lúa sau thu hoạch, thiếu nhà mát để lưu kho, thiếu cơ sở để chế biến, và quan trọng hơn hết là thiếu thị trường để tiêu thụ một lượng hàng “thô” dồi dào trong khi hoạt động chế biến còn rất hạn chế. Thêm vào đấy, nông dân vào thời điểm thu hoạch cũng đã hết tiền nên phải bán tháo để lấy vốn cho kỳ tới. Về cơ bản các hiệp hội về nông dân và nông nghiệp Việt Nam chưa giúp nông dân giải quyết những vấn đề này một cách hiệu quả.
Kết luận
Việc đầu tư và phát triển không đồng bộ trong chuyển giao công nghệ vào chuỗi ngành hàng, những hạn chế trong thành phần sản xuất và tổ chức quản lý, đặc biệt hạn kỳ sử dụng đất và thủ tục giấy tờ rườm rà ở nông thôn đã và đang làm nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như lúa gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, trà, v.v, không ứng dụng được công nghệ cao, chất lượng thấp, và “được mùa” thì “mất giá” – giá xuất khẩu chỉ đạt khoảng 50-60% giá trung bình thế giới. Trong khi đó, đất có thể canh tác của Việt Nam đã khai thác gần hết, người lao động ở nông thôn đã bỏ lên thành phố khá nhiều, và trong những năm tới năng suất trên một diện tích tuy sẽ vẫn tăng nhưng không ở mức đáng kể như mấy năm qua.
Vì vậy, để đột phá nông nghiệp Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất, đó là áp dụng chính sách nông nghiệp/đất đai vì nông dân, xây dựng chuỗi ngành hàng, tích cực hỗ trợ việc đổi mới công nghệ và đưa công nghệ cao vào nông nghiệp, có như vậy mới tạo động lực để người nông dân và các doanh nghiệp linh hoạt điều chỉnh cơ cấu cây trồng, nâng cao chất lượng nông phẩm, thích nghi với nhu cầu của các thị trường và tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt trong kỷ nguyên hội nhập.
Nông sản trong thời đại WTO là sự tổng hợp của một chuỗi giá trị với sự kết hợp nhuần nhuyễn của ba khâu: i) kỹ thuật/công nghệ, ii) quy trình sản xuất nông nghiệp tốt, và iii) thành phần tham gia sản xuất. Nhưng Việt Nam chỉ mới phát triển tốt cho một vài khâu, chưa hình thành một chuỗi ngành hàng xuyên suốt, đồng bộ. |