Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 24/11/2008 15:30 (GMT+7)

GS.TSKH. Nguyễn Khánh Dư và “gia tài” của một người thầy

Vâng, tôi là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam


Có lần ông được phỏng vấn mà câu hỏi đặt ra hết sức hóc búa: “Nếu người nước ngoài hỏi giáo sư (GS) trong các lần đi nước ngoài để tham dự hội nghị khoa học hay hợp tác khoa học ở nhiều nước trên thế giới rằng: “Ông có phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) không? Xin ông cho biết về sự liên quan của Đảng CSVN đối với công việc ông đang làm?”, GS không ngần ngại nói ngay: “Vâng, tôi là đảng viên đảng CSVN. Tất cả mọi cử chỉ, hành động, hoạt động chuyên môn, khoa học kỹ thuật và đào tạo cán bộ của tôi đều được thực hiện theo đường lối cách mạng... Khoa học là di sản chung của cả thế giới, không phân biệt  là của các nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi luôn luôn nghiên cứu những đặc điểm của y tế, y học Việt Nam trong điều kiện cụ thể của nhân dân và đất nước. Và chúng tôi không ngừng áp dụng một cách sáng tạo các thành tựu của y học thế giới vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam với mục đích cuối cùng là “Vì sự nghiệp khoa học và bảo vệ sức khỏe nhân dân”.


Ông là một trong số rất ít người có tuổi Đảng (57) còn lớn hơn tuổi nghề (55). Con đường mà ông bước chân vào nghề y được xuất phát từ sự yêu nước và dấn thân cho Đảng, cho sự nghiệp bảo vệ, giải phóng dân tộc. Ông tham gia Mặt trận Việt Minh từ rất sớm. Năm 1947, cũng như tất cả thanh niên Việt Nam yêu nước khác, cậu đã tình nguyện ra mặt trận theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài mặt trận, chứng kiến cảnh đồng đội, đồng bào đã ngã xuống hay bị thương trong điều kiện thiếu thốn thuốc men, phương tiện y tế, cậu hết sức đau xót và một ý nghĩa rất nhân văn đã được nhen nhúm từ đó: “Nếu sau này được học hành tốt sẽ quyết dấn thân vào ngành y để cứu sống được nhiều người hơn”.


Năm 1950, người thanh niên yêu nước Nguyễn Khánh Dư được vinh dự kết nạp vào Đảng CSVN (khi đó gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương).  Một bước ngoặt lớn trong cuộc đời - cuối năm 1953, cuộc kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp đi gần tới thắng lợi, để chuẩn bị cho một tương lai lạc quan trong công cuộc xây dựng lại đất nước, ông được gửi sang học ở Liên Xô, tại Trường Đại học Y khoa Matxcơva 1 mang tên Xêtrênôp. Học tới năm thứ 5, mặc dù vẫn chỉ là sinh viên nhưng ông được tin tưởng giao hướng dẫn thực hành cho sinh viên y khoa năm thứ 3, 4 tại một bệnh viện (BV) thực hành của trường ở thành phố Tule. Sau 6 năm miệt mài học tập, ông trở về nước phục vụ Tổ quốc với tấm bằng hạng ưu.


Năm 1964, ông trở lại Matxcơva để bảo vệ luận án Phó tiến sĩ với đề tài: “Điều trị phẫu thuật bệnh hẹp van động mạch chủ và các hẹp van tim khác phối hợp”.  Ngay sau thời gian này, trước sự hy sinh của đồng bào Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đã thôi thúc người bác sĩ trẻ từ Liên Xô tình nguyện trở về tham gia kháng chiến. Năm 1973, ông được tăng cường cho tiền tuyến với cương vị là Chủ nhiệm Khoa ngoại Bệnh viện lâm sàng Trung ương miền Nam Việt Nam (Bệnh viện E). Tại chiến trường Vĩnh Linh - Quảng Bình, nơi được xem là “túi bom của tuyến lửa”, ông đã tiến hành những ca mổ hết sức phức tạp dưới hầm, trong tiếng gào rú của bom đạn. Rất nhiều chiến sĩ và đồng bào đã được ông cứu sống.


Đến năm 1981, ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ khoa học với đề tài: “Điều trị phẫu thuật vết thương và di chứng vết thương  mạch máu lớn ngoại biên” tại Liên Xô. Đề tài luận án của ông được Hội đồng khoa học Viện hàn lâm y khoa Liên Xô đề nghị cho viết thành một cuốn sách chuyên khảo bằng tiếng Nga. Cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Y học Matxcơva ấn loát và phát hành năm 1985. Năm 1984, ông được phong học hàm Giáo sư I, năm 1991 phong học hàm Giáo sư II. Ông thông thạo 3 thứ tiếng nước ngoài: Anh, Pháp, Nga.


Từ ngày 1/5/1975, ông đã có mặt tại Sài Gòn. Tiếp đó là những năm tháng miệt mài làm việc với tinh thần khoa học và sáng tạo tại BV Chợ Rẫy trên cương vị là Phó giám đốc; là Chủ nhiệm Bộ môn Phẫu thuật lồng ngực - tim mạch Trường đại học Y Dược TP. HCM. Theo BSCKII. Đồng Lưu Ba - hiện là Trưởng khoa Phẫu thuật lồng ngực tim mạch BV Chợ Rẫy: “Chỉ tính riêng ở BV Chợ Rẫy, GS. Dư đã đào tạo cho 7 tiến sĩ, hàng chục bác sĩ chuyên khoa II loại giỏi. Điểm quý nhất, nhớ nhất ở thầy Dư là tinh thần làm việc không mệt mỏi, từ sáng, tối, nửa đêm... cần đến sự hướng dẫn là thầy có mặt đúng lúc. Thầy rất tận tình với học trò...”. Có một điểm hiếm có ở người thầy rất đặc biệt này là chỉ đạo  mổ qua điện thoại. Ông đã thực hiện công việc này một cách thích thú với mục đích duy nhất là cứu sống người bệnh. Trong số đó, BV Nghĩa Bình, Quy Nhơn đã lần đầu tiên thành công ngoạn mục trong ca cấp cứu khẩn vết thương tim “có 1 không 2” nhờ vào sự chỉ đạo qua điện thoại của thầy Dư lúc 1 giờ sáng. Có 2 điều tâm đắc ông dành riêng cho học trò mình là: “Ngoài chuyên môn, người thầy thuốc phải luôn luôn đặt chữ “Đức” lên đầu, khi hành nghề phải xứng đáng với 5 chữ: Thầy thuốc như mẹ hiền. Khi đã học được nghề thì không nên giấu nghề mà phải hướng dẫn cặn kẽ cho người đi sau. Việc truyền nghề không đến nơi đến chốn sẽ đưa đến hậu quả là người tiếp thu sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng bệnh nhân”. Chính vì tâm niệm tất cả vì người bệnh, vì khoa học, không màng đến vụ lợi và hư danh nên GS đã hoàn toàn chinh phục được lòng yêu mến của đồng nghiệp, sự kính trọng của học trò và niềm tin yêu nơi bệnh nhân. GS. Lâm Hồng Trường - Chủ nhiệm bộ môn Trường Đại học Y Dược TP. HCM cho biết: “GS. Dư là thế hệ đàn anh của chúng tôi. Ở GS, trí tuệ đã hòa vào rất tự nhiên với phong cách và đạo đức của một con người, không có gì gượng gạo cả”. Từ năm 2001 đến nay, tuy đã nghỉ hưu nhưng GS vẫn tiếp tục làm chuyên viên và cố vấn ngoại khoa cho 2 bệnh viện lớn là: Thống Nhất và Quân y 175; vẫn tiếp tục dạy học, tham gia chấm luận án tiến sĩ, thạc sĩ, chuyên khoa cấp I, II cho học trò với tư cách là Chủ tịch Hội đồng, là phản biện độc lập cho nhiều bản luận án tiến sĩ y học... Và nhất là “tinh thần vẫn minh mẫn, đôi bàn tay vẫn dẻo dai, vững chắc” để ông tiến hành rất nhiều ca mổ theo lời mời của một vài bệnh viện ở TP.HCM.


Gia tài của một thầy thuốc


Thầy Dư cùng học trò sau ca phẫu thuật thành công tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
Thầy Dư cùng học trò sau ca phẫu thuật thành công tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
Ông rất “giàu”! Vâng, có lẽ không ai ngạc nhiên cả. Cái sự “giàu” của ông chính là một gia tài lớn và quý giá dành cho người bệnh, cho học trò và nền y học nước nhà mà không có bất cứ một thứvật chất nào có thể cân, đo, đong, đếm được. Đó chính là trên 10.000 ca mổ cùng biệt danh “người thầy thuốc có đôi bàn tay vàng”. Ông luôn là bác sĩ mổ chính giải quyết những trường hợp khó nhấtthuộc các bệnh tim mạch, phổi, tiêu hóa, thận và các mạch máu lớn ngoại biên. Ông là một trong những tên tuổi nổi tiếng đi tiên phong trong phẫu thuật bướu cổ, đặc biệt  là dạng bướu Basedow độctính, thường có nhiều nguy cơ biến chứng cao. Trong số trên 800 ca mổ bệnh cường giáp Basedow của ông, có nhiều trường hợp rất đặc biệt, nhất là gia đình có 5 chị em gái đều mắc bệnh này... Ông làngười đầu tiên viết sách về phẫu thuật bệnh này. Và cũng chính người bác sĩ, người thầy hơn nửa thế kỷ gắn bó với trái tim con người ấy đã vượt qua bao khó khăn để đạt tới đỉnh cao khoa học với mộtđường mổ mang tên ông, được cả thế giới trân trọng ghi đậm nét trong y văn thế giới - Đường mổ Nguyễn Khánh Dư. Đó là đường mổ mới gọi là “Đường mổ cổ - ngực kết hợp” cho một bệnh nhân ở Tây Ninh bịviên đạn xuyên vào lồng ngực từ 10 năm trước, nay vết thương tái phát, phải mổ. Cái khó là viên đạn lại nằm giữa phần trung tâm động mạch cảnh trái và động mạch dưới đòn trái. Chọn đường mổ thích hợpcho trường hợp này là vấn đề nan giải, nếu không sẽ nắm chắc nguy cơ tử vong. Bằng đôi tay tài hoa và con dao mổ, GS đã “vẽ” nên một đường mổ tuyệt tác có hình chữ L đi vào phần trung tâm của độngmạch cảnh gốc trái và động mạch dưới đòn trái: bắt đầu từ bờ trước của cơ ức đòn chũm, trên chuôi xương ức khoảng 4 - 5cm, kéo dài xuống mặt trước của xương ức, rẽ ngoặt sang trái, nơi ngang mức vớikhoảng liên sườn thứ 2 và tận cùng ở điểm cách bờ trái xương ức 6 - 8cm. Và điều tuyệt diệu đã xảy ra, đường mổ không những cứu sống bệnh nhân (vào ngày 19/9/1978) mà còn đi vào lịch sử y văn thếgiới và được mang chính tên người đã sinh ra nó - GS. Nguyễn Khánh Dư.


GS. Dư còn là người lập nên một bảng phân loại mới về các di chứng vết thương mạch máu lớn ngoại biên. Bảng phân loại này hiện nay được coi là tiên tiến, hiện đại nhất của thế giới.


Không dừng ở đó, GS còn có hơn 100 công trình nghiên cứu khoa học, hàng chục đầu sách chuyên khảo, đào tạo nhiều thế hệ học trò mà trong đó có rất nhiều tiến sĩ nay đã thành danh...


Và trong cái gia tài quý báu đó, thật khó có thể kể hết hàng nghìn bức thư từ rất nhiều địa chỉ khác nhau, trong nước cũng như nước ngoài gửi đến cho nhà khoa học, nhà giáo, người thầy thuốc ưu tú Nguyễn Khánh Dư. Mỗi bức thư kể về một tâm tình, một hoàn cảnh khác nhau nhưng tất cả đều nói lên lòng khâm phục và quý mến người thầy thuốc đức độ, đầy tài năng đã cứu sống và cho mình “được sinh ra lần thứ 2”. Họ gọi ông là con người có trái tim nhân hậu, hòa chung nhịp đập với trái tim người bệnh.


Mới đây, khi gặp ông tại nhà riêng, tôi thật sự cảm phục khi thấy GS, dù vào ngày nghỉ chủ nhật nhưng ông vẫn cặm cụi bên bàn làm việc, cẩn thận ghi chép từng ca mổ đã thực hiện của ngày hôm trước cũng như lên lịch mổ cho các ngày tiếp theo. Liếc nhìn cuốn sổ “Phẫu thuật từ sau Tết Đinh Hợi”, tôi thấy lịch làm việc của ông quả thật đáng nể. Trung bình một ngày ông vẫn thực hiện từ 2 đến 4 - 5 ca mổ, kể cả ngày thứ bảy, thậm chí có ngày tới 6, 7 ca. Không những thế, ông vẫn xuất sắc với trách nhiệm là Chủ tịch Hội Phẫu thuật lồng ngực tim mạch TP. HCM. Nhận lời mời của Hội thảo Hội tim mạch học can thiệp quốc gia lần thứ 2 vào tuần đầu tháng 10/2007, ông đang say sưa soạn báo cáo khoa học về “Biến chứng hiếm gặp trong quá trình can thiệp không xâm lấn” và tự tay vẽ lấy tất cả hình ảnh minh họa. Ông như trẻ hơn tuổi 77 của mình rất nhiều, vẫn nhanh nhẹn và tận tụy.


Dù không có cái may mắn được làm học trò của GS ngày nào nhưng tôi đã kịp học ở chính con người ông một sự minh chứng cho sức lao động bền bỉ, tác phong của nhà khoa học chân chính và một trái tim giàu tình người.

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Phú Thọ: Đề xuất xây dựng dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng tỉnh nhiệm kỳ 2025 - 2030
Sáng 26/11, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức hội thảo “Nghiên cứu, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025; đề xuất khâu đột phá và một số nhiệm vụ trọng tâm phục vụ xây dựng dự thảo Văn kiện ĐH Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030” đối với đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà KH thuộc các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Bộ TT&TT làm việc với LHHVN khảo sát sơ kết việc thực hiện Quyết định số 362/QĐ-TTG
Chiều ngày 27/11, tại trụ sở LHHVN, Đoàn công tác của Bộ TT&TT đã có buổi làm việc với LHHVN khảo sát sơ kết Quyết định số 362/QĐ-TTG ngày 03/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025. Thứ trưởng Bộ TT&TT Bùi Hoàng Phương và Phó Chủ tịch LHHVN Phạm Ngọc Linh chủ trì buổi làm việc.
Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.