Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 25/04/2005 17:55 (GMT+7)

Góp ý sửa đổi nội dung Nghị định 88/2003/NĐ-CP: “Các bộ, ngành chỉ nên thực hiện chức năng bảo trợ các hội”

Chúng tôi hoan nghênh Bộ Nội vụ đã chủ động xem xét lại nội dung của Nghị định 88/2003/NĐ-CP và chuẩn bị trình Chính phủ bản dự thảo Nghị định sửa đổi về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.

Nghị định 88/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/7/2003 ra đời để thay thế Nghị định số 258/TTg năm 1957 về việc quy định chi tiết thi hành Luật số 102/SL-L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 Về quyền thành lập hộinhằm đẩy mạnh quá trình dân chủ hoá các hoạt động xã hội, tạo điều kiện để mọi công dân, mọi tổ chức nếu có nguyện vọng có thể thành lập các tổ chức hội, đáp ứng đầy đủ hơn những nhu cầu khác nhau của người dân và tăng cường sự đóng góp của họ trong quá trình phát triển đất nước. Lần đầu tiên quá trình tổ chức, hoạt động của hội và quản lý nhà nước đối với hội được quy định một cách bài bản, rõ ràng, đầy đủ, chi tiết và hệ thống. Nghị định có cấu trúc và nội dung khá hợp lý. Đọc Nghị định, mọi tổ chức, cá nhân muốn thành lập hội đều có thể biết được trình tự và những nội dung cụ thể cần phải thực hiện khi xin thành lập, sau khi đã có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập, trong quá trình hoạt động của hội. Nghị định cũng nêu rõ nhiệm vụ của các cơ quan Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về hoạt động hội. Nói tóm lại, đây là một văn bản pháp quy được chuẩn bị rất công phu.

Từ năm 2003, LHH đã tổ chức hội thảo lấy ý kiến của các hội thành viên về nội dung Nghị định 88/NĐ-CP

Nếu trong quá trình soạn thảo và lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức khác nhau, Ban soạn thảo có tinh thần cầu thị hơn thì có thể tránh được một số nhược điểm làm giảm giá trị của Nghị định.

Như đã nêu ở trên, dù có những ưu điểm rất cơ bản trên, Nghị định 88/NĐ-CP cũng chứa đựng một số nhược điểm quan trọng, gây phản ứng gay gắt của tuyệt đại đa số các hội và nhiều cơ quan Đảng và Nhà nước các cấp.đây tôi chỉ nói đến những nội dung quan trọng nhất cần sớm được nghiên cứu sửa đổi lại cho hợp lý.

Hiện nay bên cạnh những hội hoạt động trong một lĩnh vực cụ thể có trong tổ chức của mình các hội viên cá nhân và hội viên tập thể như Hội khoa học lịch sử, Hội Đông Y, Hội tin học…thì có cả những tổ chức hội chỉ tập hợp các hội tập thể, không có các hội viên cá nhân, như Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, và Liên minh các hợp tác xã Việt Nam v.v…Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức này cũng khác với các hội thông thường. Vì vậy theo ý kiến của tôi nên có một chương trong Nghị định dành riêng cho các tổ chức này.

Về vấn đề quản lý các hội, tôi đồng ý với nguyên tắc Bộ Nội vụ thống nhất quản lý nhà nước đối với tất cả các loại hội đúng như đã qui định trong Nghị định (điều 32). Hội hoạt động trong lĩnh vực nào thì chịu sự quản lý nhà nước của bộ, ngành chịu trách nhiệm về lĩnh vực đó (điều 23, khoản 2). Tuy nhiên hoạt động của hội vô cùng phong phú và đa dạng. Ví dụ, hệ thống báo chí của Liên hiệp hội do Bộ văn hoá-Thông tin quản lý, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ do Bộ khoa học và công nghệ quản lý, … Việc đưa các hội về cho từng bộ quản lý mang tính chất hành chính như đã ghi trong Nghị định và dự thảo văn bản hướng dẫn là không hợp lý. Lại càng không nên để Bộ Nội vụ và Bộ ngành đồng thời thực hiện nhiệm vụ quản lý các hội (điều 32 và điều 33). Để tạo điều kiện cho các hội hoạt động thuận lợi và có hiệu quả, chỉ nên giao cho các bộ ngành thực hiện chức năng bảo trợcác hội là đủ. Tất nhiên cũng cần nêu rõ những nội dung cần bảo trợ để các các bộ thực hiện sự bảo trợ một cách thống nhất, không tuỳ tiện. Vì vậy, cần loại bỏ những nội dung mang tính chất quản lý hành chính của các bộ chuyên quản đối với hội ra khỏi văn bản Nghị định. Ví dụ cần bỏ câu Ban vận động thành lập hội được cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực mà hội dự kiến hoạt động công nhận(câu 2, khoản 1, điều 7). Thay vào đó là Bộ Nội vụ công nhận ban vận động thành lập hội. Bỏ cụm từ: Bộ quản lý ngành, lĩnh vực hoạt động (khoản 3, điều 23). Viết lại toàn bộ điều 33, chỉ để lại nội dung chủ yếu của khoản 2 của điều này.

Theo tinh thần hội nhập quốc tế và đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như theo Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị cần cho phép các hội, đặc biệt là các hội khoa học và kỹ thuật, quyền kết nạp Việt kiều và người nước ngoài tham gia hội với tư cách hội viên liên kết, hội viên danh dự. Trong một số trường hợp có thể mời họ tham gia hội với tư cách hội viên chính thức. Ví dụ, nên mời các giáo sư Trần Thanh Vân (Pháp), Trịnh Xuân Thuận (Mỹ) làm hội viên chính thức Hội Vật lý Việt Nam…Đến hội khoa học và kỹ thuật mà các trí thức Việt kiều yêu nước không được tham gia hoạt động với tư cách hội viên liên kết, danh dự và trong một số trường hợp là các hội viên chính thức thì làm sao thu hút họ tham gia phục vụ đất nước? Làm sao giải thích được chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc?

Cần xem xét lại khoản 11 điều 22 của Nghị định và xử lý vấn đề các hội tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế một cách linh hoạt hơn. Cụ thể là nên cho phép các hội địa phương cũng như hội trung ương có thể đồng thời tham gia một số tổ chức khu vực hay quốc tế. Ví dụ như Hội tin học Việt Nam và Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh đều có thể tham gia các tổ chức tin học trong khu vực và quốc tế. Điều này không phương hại đến bất kỳ ai, nhất là khi các tổ chức khu vực hay quốc tế lại là những tổ chức khoa học chuyên sâu, tổ chức nghề nghiệp. Ngay như ở Việt Nam cũng đang có tình hình đó. Ví dụ, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Hội luật gia, Hội làm vườn, Hội Đông y, Hội khoa học lịch sử, thậm chí một số cá nhân tiêu biểu của các hội đó đều là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Trong khi chúng ta đang đề cao sự tham gia của công dân vào việc nước và việc xã hội theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tôi cho rằng nên bỏ phần cuối của câu: Tư vấn, phản biện các vấn đề thuộc phạm vi hoạt động hội theo đề nghị của tổ chức và cá nhân (khoản 6, điều 22). Có rất nhiều vấn đề các hội có thể có ý kiến tư vấn mà không cần có đề nghị của tổ chức và cá nhân. ý kiến tư vấn của Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đối với các dự án làm sạch nước Hồ Tây của Thành phố Hà Nội. Các kiến nghị liên quan đến dự án của Bộ Quốc phòng xây dựng Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam…đều thuộc sáng kiến của các nhà khoa học thuộc Liên hiệp hội, chứ không phải theo đề nghị của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội hay Bộ Quốc phòng.

Cuối cùng cũng phải nói thêm rằng trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng lực lượng trí thức yêu nước vượt qua nhiều hy sinh, gian khổ đã có những đóng góp rất to lớn cho nền độc lập dân tộc và cho sự phát triển đất nước. Ngày nay trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước tiến vào nền kinh tế tri thức, khi Đảng đã khẳng định rằng khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất trong phát triển kinh tế- xã hội, thì việc xếp Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, một tổ chức đại diện cho lực lượng trí thức khoa học và công nghệ nước nhà, vào một vị trí xã hội như hiện nay là hoàn toàn không thoả đáng, khó hiểu và không thể lý giải. Nhưng đó là vấn đề cần thảo luận trong một dịp khác. Mặt khác, hiện nay Bộ Nội vụ đang chủ trì xây dựng Luật về Hội, chúng tôi cho rằng chất lượng của bản dự thảo sẽ tốt hơn nếu ngay từ đầu đã có sự tham gia của đại diện Liên hiệp hội, trước hết là của Hội Luật gia Việt Nam.

Hồ Uy Liêm*

Từ năm 2003, LHH đã tổ chức hội thảo lấy ý kiến của các hội thành viên về nội dung Nghị định 88/NĐ-CP

* Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam


-----

Góp ý cho Nghị định 88/2003/NĐ-CP

“Trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là 30 vạn nhà khoa học và công nghệ đang hoạt động và thành đạt trên nhiều lĩnh vực, có thể đóng góp một phần có ý nghĩa. Đảng và Nhà nước có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi để kiều bào về thăm quê hương, mở mang các hoạt động văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh góp phần thiết thực xây dựng đất nước. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam được giao nhiệm vụ thu hút trí thức khoa học và công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài, thậm chí trí thức người nước ngoài đóng góp cho sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ của nước ta. Việc không cho phép các hội quần chúng, trước hết là các hội khoa học và kỹ thuật, kết nạp những người Việt Nam ở nước ngoài vào hội là không phù hợp với những tư tưởng chỉ đạo ghi trong các văn kiện của Đảng và cần được xem xét lại một cách cặn kẽ".

PGS.TS Tô Bá Trọng
(Uỷ viên Đoàn Chủ tịch HĐTW Liên hiệp hội)

điều 1, cần phải làm rõ quan điểm về các loại hội, lấy chức năng, nhiệm vụ của hội để phân loại các hội, xác định vị trí của các loại hội một cách hợp lý. Chẳng hạn, các liên hiệp hội, các hội được xác định là tổ chức chính trị – xã hội do Đảng chủ trương thành lập và trực tiếp lãnh đạo (Liên hiệp hội TW và các hội ngành TW chịu sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các liên hiệp hội, hội ở địa phương chịu sự lãnh đạo của các cấp uỷ địa phương) để thực hiện một nhiệm vụ quan trọng là tập hợp quần chúng thực hiện mục tiêu của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, về cơ bản khác với các nghề nghiệp đơn thuần. Khi xác định được sự khác nhau về vai trò, chức năng và nhiệm vụ của hội, thì cần thiết phải có sự phân biệt trong việc xác định đối tượng điều chỉnh. Như vậy, đối với các hội, Liên hiệp hội được Đảng xác định là tổ chức chính trị – xã hội, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng giao phó”

TS Phan Tùng Mậu
(Vụ KHTN, CN&MT - Ban Khoa giáo TW)

“Các điều khoản trong Nghị định tuy tương đối rõ, nhưng về các mục cơ chế chính sách chưa thực sự đảm bảo đầy đủ theo Tinh thần của Chỉ thị 45/CT/TW ngày 11-1-1998 của Bộ Chính trị. Hệ thống của Liên hiệp hội chúng ta sau hơn 20 năm thành lập ở Trung ương, đến nay vẫn chưa là một Liên hiệp hội mạnh theo hệ thống của nó. Nhiều liên hiệp hội địa phương sau khi thành lập rất lúng túng trong phương thức hoạt động. Có hội ra đời đã 3 nhiệm kỳ đại hội vẫn không có một trụ sở độc lập, vẫn phải ở nhờ, ở tạm bợ; không có phương tiện hoạt động như xe ô tô, máy photocopy, máy vi tính…có hội không có biên chế, không có người đứng ra lo liệu việc hội. Cơ quan thường trực hầu hết là kiêm nhiệm, không có cán bộ chuyên trách. Có hiện tượng liên hiệp hội phải tiếp nhận những cán bộ thiếu năng lực, hoặc “có vấn đề” từ các cơ quan Nhà nước chuyển đến là những khó khăn cho việc tổ chức hoạt động của hội. Từ đó cũng tạo ra cơ chế hoạt động của hội quá mức lỏng lẻo nên không tạo được sự gắn kết giữa các hội viên với hội và các hội với nhau kể cả trong cùng một hệ thống”.

Nguyễn Văn Thát
(Chủ tịch Liên hiệp hội Thanh Hoá)

“Trong hệ thống tổ chức của Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam hiện nay có 2 hệ thống: Liên hiệp các hội KH&KT các tỉnh, thành phố và các hội chuyên ngành. Theo tinh thần Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị 14/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì Liên hiệp hội là tổ chức chính trị - xã hội của đội ngũ trí thức KH&CN, bởi vậy tôi nghĩ rằng mặc dù về thời gian ra đời, quá trình hoạt động và quy mô, hệ thống tổ chức của Liên hiệp hội chưa bằng các đoàn thể chính trị khác nhưng nó cần phải được đối xử bình đẳng như các đoàn thể khác. Chính vì vậy tôi thấy rằng Liên hiệp hội các cấp không nên đưa vào phạm vi điều chỉnh của nghị định này. Nếu xét theo Điều 2 Hội của Nghị định: Hội được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức cùng ngành nghề, sở thích, giới...đoàn kết, tập hợp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên... thì chúng tôi thấy rằng Liên hiệp hội là tổ chức không có hội viên, chỉ có hội thành viên và hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực. Xin nhắc lại trong các văn bản Liên hiệp các hội KH&KT cũng đều viết tắt là Liên hiệp hội chứ không phải là Hội. Chính vì vậy, tôi đề nghị Nghị định này chỉ nên áp dụng cho các hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp”.

Lê Công Lương
(Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Liên hiệp hội Hà Tĩnh)

Xem Thêm

Cao Bằng: Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò quan trọng nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn một cách khách quan, tạo ra sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý, đối tượng quản lý và cộng đồng xã hội, đồng thời tạo ra tính khả thi, hiệu quả khi kết quả tư vấn, phản biện được áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Dự án Vành đai 4 - Vùng Thủ đô phải minh bạch phương án tài chính
Khẳng định đầu tư theo phương thức đối tác công tư(PPP) đối với dự án thành phần 3 đầu tư xây dựng đường cao tốc thuộc DA Đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội là cần thiết, chuyên gia lưu ý, Nhà nước phải minh bạch phương án tài chính, có phương án tổ chức giao thông rõ ràng, nhất là đối với các phương tiện liên tỉnh bắt buộc phải đi qua Vành đai 4 để bảo đảm quyền lợi nhà đầu tư.
Các nhà khoa học góp ý cho Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô
Ngày 12/9, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với Tổng hội Xây dựng Việt Nam và Hội Khoa học và kỹ thuật Cầu đường Việt Nam tổ chức Hội thảo "Tác động của việc xây dựng Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc theo phương thức đối tác công tư thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội".
Nâng cao hiệu quả công tác tư vấn phản biện của Liên hiệp hội Việt Nam
Thời gian qua Liên hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã chủ trì tổ chức thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội (TV, PB &GĐXH) rất sôi nổi. Rất nhiều cuộc toạ đàm, hội thảo đã được tổ chức, các hội thành viên, các tổ chức trực thuộc đã đóng góp được những ý kiến rất phong phú, bổ ích.
Phát huy hiệu quả hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội
Hoạt động TVPB&GĐ XH là hoạt động mang tính xã hội, độc lập, khách quan, do trí thức đóng góp trí tuệ, cung cấp cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền làm cơ sở đánh giá, phân tích và quyết định các vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách quan trọng và những chương trình, dự án lớn có liên quan về KH&CN, GD&ĐT và chính sách xây dựng đội ngũ trí thức.
Liên hiệp Hội Sơn La: Đẩy mạnh hoạt động tư vấn phản biện
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò quan trọng nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn một cách hiện thực, khách quan, tạo ra sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý, đối tượng quản lý và cộng đồng xã hội, tạo ra tính khả thi, hiệu quả khi áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Phát triển nhà ở xã hội: Cần bổ sung cụ thể vào Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi)
Trong tờ trình về dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) gửi Thủ tướng Chính phủ mới đây, Bộ Xây dựng cho biết, nhiều năm qua, việc chăm lo giải quyết nhà ở cho người dân luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm quan tâm và xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tin mới

Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử
Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước tổ chức khai mạc Triển lãm “Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử”, kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 / 7-5-2024).