Giấy bạc Việt Nam
Ngày 31-1-1946, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh số 18.SL cho phép Bộ Tài chính phát hành “Giấy bạc Việt Nam” ở Nam Trung bộ từ vĩ tuyến 16 trở vào. Các loại tiền này in trên giấy bổi bằng vỏ cây xay, do Sở ấn loát Tài chính Trung bộ cùng Ủy ban Tổng phát hành Giấy bạc Việt Nam in ấn. Nơi chọn phát hành đầu tiên là các tỉnh Nam Trung bộ, vì ở đây không có quân đội nước ngoài chiếm đóng, chính quyền cách mạng hoàn toàn làm chủ và phong trào cách mạng của quần chúng rất mạnh. Tiền Tài chính này dần lan ra Hà Nội, nên ngày 13-8-1946, có sắc lệnh số 154.SL cho phép phát hành “Giấy bạc Việt Nam” tại Bắc Trung bộ trên vĩ tuyến 16, lưu hành song song với tiền NHĐD cũ với tỷ giá 1:1.
Ngày 23-9-1945, phản đối quân Pháp trở lại Việt Nam nên toàn dân Nam bộ kháng chiến, vì chưa có tiền riêng để sử dụng, Ủy ban Hành chính Cách mạng các tỉnh ở miền Nam như Biên Hòa, Long Xuyên, Châu Đốc, Tiền Giang, Bến Tre, Chợ Lớn, Long Phước, Rạch Giá, Hà Tiên… đã dùng tiền giấy của NHĐD nhưng đóng dấu đỏ thị thực của vùng cách mạng quản lý để sử dụng. Những tờ giấy bạc có đóng dấu cách mạng này rất có giá trị lịch sử.
Tuy nhiên, người Pháp vẫn xem vấn đề tiền tệ thuộc chủ quyền của mình, nên ngày 17-11-1945, Cao uỷ Pháp là Đô đốc Bá tước D’Ărgenlieux tuyên bố huỷ bỏ giấy 500 đồng vàng (rồng xanh - rồng vàng) vì cho rằng được in thời chính phủ thân Nhật nên không có giá trị sử dụng. Sự giao thiệp về vấn đề tiền tệ giữa hai chính phủ Pháp - Việt trở nên gay go có lúc đổ máu, như đầu năm 1946, người Pháp đã bắn vào dân Hà Nội biểu tình phản đối sự huỷ bỏ giấy 500 đồng.
Từ đó, chính phủ Việt Namthì phản đối việc Pháp cho phát hành thêm tiền mới, còn chính phủ Pháp thì tuyên bố không chịu trách nhiệm gì về tiền do Việt Nam in ra. Khắp Việt Nam và cả ở Lào cùng Cambodia nguyên vị tiền tệ Pháp - Việt chưa được thoả thuận, nhưng ở Hội nghị Đà Lạt và Hội nghị Fontainebleau từ ngày 6-7 đến 13-9-1946, hai chính phủ đã thoả thuận nguyên tắc là giá trị đồng bạc Đông Dương so với đồng franc sẽ do hai bên ký kết: Đến đầu tháng 12-1946, trong một cuộc họp riêng ở Hà Nội, trao đổi ý kiến giữa hai chính phủ đều cho rằng vấn đề tiền tệ có thể dung hoà được nếu các vấn đề khác giải quyết xong…
Nhưng ngày 19-12-1946, tiếng súng bùng nổ… Bác Hồ kêu gọi… Toàn quốc kháng chiến… Trong vùng Pháp kiểm soát, cấm lưu hành tiền giấy Hồ Chí Minh…
Bạc Đông Dương: kẻ thương người ghét,
Bạc Cụ Hồ: người nhét kẻ thu,
Ra tay ta chống quân thù,
Dù cho bây có đốt hết,
Bạc chiến khu lại… chở về !
Từ 1947, trong các vùng do quân đội Pháp chiếm đóng, các loại tiền của NHĐD cũ vẫn sử dụng cùng loại tiền mới phát hành. Như đã nói ở trên, năm 1946, Hồ Chủ tịch đã ra sắc lệnh phát hành tiền tài chính thường có hàng chữ “Giấy bạc Việt Nam”, quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) và chân dung Bác (thường có hàng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh”) mang những hình ảnh chống giặc dốt, chống giặc đói, chống ngoại xâm, liên minh công – nông - binh… Trên tờ giấy bạc, ngoài chữ Việt và chữ Hán, thỉnh thoảng còn thêm chữ Miên, Lào với chữ ký của Bộ trưởng Bộ Tài Chính Lê Văn Hiến, hoặc Phạm Văn Đồng và chữ ký của Giám đốc Ngân khố Trung ương cùng hàng chữ “Theo sắc lệnh của Chính phủ Việt Nam, kẻ nào làm giả hoặc có hành động phá hoại tờ giấy bạc của Chính phủ, sẽ bị trừng trị theo quân pháp”.
![]() |
Về tiền đúc thì có 20 xu, 5 hào, 1 đồng và 2 đồng: xưởng dập tiền đồng được thành lập tại Văn Thánh (Huế), còn ở Hà Nội thì cơ sở dập tiền nhôm dưới nhà Bát giác của Bảo tàng Lịch sử (Bác cổ).
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, tiền tài chính đã lưu hành rộng rãi khắp các miền đất nước nên ngày 15.-5-1947, có sắc lệnh số 48.SL cho phép phát hành trên toàn cõi Việt Nam những giấy bạc 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng và 500 đồng. Tuy nhiên, chiến sự khắp nơi làm việc liên lạc giữa các địa phương và Trung ương gặp nhiều trở ngại..
Ở Trung bộ (Liên khu 5), theo sắc lệnh số 231, ngày 18-7-1947 cho phép phát hành các loại tín phiếu ghi quốc hiệu VNDCCH và hình ảnh Bác Hồ nhưng có 2 chữ ký: Phạm Văn Đồng ký “Đại diện Chính phủ Trung ương” và một chữ ký của “Đại diện Ủy ban Hành chính Trung bộ ” gồm các loại 1đ, 5đ, 20đ, 50đ, 100đ, 500đ và 1.000đ với hình thức tương tự Giấy bạc Việt Nam nhưng được thay bằng chữ “Tín phiếu”.
Ở Nam bộ, ngày 1-11-1947, có sắc lệnh số 102.SL cho phép phát hành các loại tín phiếu, ta thấy các loại: “Tín phiếu, Phiếu tiếp tế, Phiếu đổi chác…của riêng từng tỉnh và chỉ lưu hành trong tỉnh đó như ở Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Hà Tiên… với 2 chữ kỳ của Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh và Trưởng ty Ngân khố. In hình Bác Hồ và các cảnh sinh hoạt, tuy kỹ thuật in thô sơ nhưng đầy ý nghĩa vì thường có hàng chữ cổ động (có thể in cùng lần với tín phiếu hoặc cũng có thể in đè lên thêm khi phát hành) như “Toàn dân đoàn kết chống ngoại xâm – Tích cực chuẩn bị phản công – Thi đua lập chiến công – Một nước Việt Nam độc lập, một chính phủ Hồ Chí Minh…”.
Ngày 21-3-1948, chính phủ ra sắc lệnh số 147.SL cho phép phát hành tại Nam bộ và lưu hành trên toàn quốc Giấy bạc Việt Nam, rồi ngày 14-4-1948, đình chỉ lưu hành tiền đồng thời phong kiến và ngày 30-4-1948, thì Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh tuyên bố các loại tiền giấy bạc của NHĐD không có giá trị trong vùng cách mạng.
Cuối năm 1948, chiến sự căng thẳng, lại do Hoa kiều ở Chợ Lớn giả Giấy bạc Việt Nam của Trung ương nên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ (UBKCHCNB) quyết định ấn loát tại chỗ và phát hành loại giấy bạc Nam bộ. Loại giấy này chất liệu khá tốt, cũng có ghi quốc hiệu VNDCCH, chân dung Bác Hồ, hàng chữ Giấy bạc Việt Namvà hàng chữ “Theo sắc lệnh của Chính phủ Việt Nam …”. Riêng về Đại diện Bộ trưởng Bộ Tài chính thì do “Chủ tịch UBKCHCNB” tức ông Phạm Văn Bạch ký, còn Đại diện Bộ trưởng Bộ Tài chính thì do Giám đốc Ngân khố Nam bộ tức ông Trần Học Hải ký. Trên tiền giấy có cả chữ Hán, Miên, Lào, bao gồm các loại 1đ, 5đ, 10đ, 20đ, 50đ, 100đ; ta thấy giấy 50đ có đến 3 loại, còn tiền 100đ thì có đến 4 loại, như vậy, tuy chiến tranh nhưng tiền tệ được in ra cũng rất phong phú... Có một số loại cho biết chỉ lưu hành hạn hẹp trong một số tỉnh nên có thêm hàng chữ “Chỉ lưu hành trong tỉnh Long – Châu – Sa” (Long Xuyên – Châu Đốc – Sa Đéc) hoặc “Chỉ lưu hảnh trong tỉnh Mỹ Tho…” nhưng điều lưu ý là tất cả Giấy bạc Việt Nam đều có chân dung Bác Hồ nên dân gian gọi là “Bạc giấy Cụ Hồ” và đểu có chữ ký hoặc đại diện Bộ trưởng Tài chính nên cũng gọi là “Tiền Tài chính”…
Sau khi ở miền Bắc đã thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vào năm 1951, thì ngày 21-9-1953, UBKCHCNB cho thành lập Ngân hàng Nhân dân Nam bộ do ông Trần Học Hải làm Giám đốc còn Phó Giám đốc là ông Trần Dương, cán bộ của Trung ương do anh Cả tức Nguyễn Lương Bằng - cử vào Nam từ năm 1951. Đầu năm 1954, Nam bộ chủ trương in giấy bạc 200đ và 500đ, đến giữa năm thì in xong loại 200đ, chưa kịp phát hành thì Hiệp định Genève được ký kết, loại 500đ còn trên bản vẽ… Hai loại giấy tiền này catalog tiền giấy quốc tế cũng như sách 100 năm tiền giấy Việt Nam đều không nhắc đến và không có hình, nhưng trong một tập báo riêng của cha tôi (không rõ cắt dẫn từ đâu) có in những tờ giấy bạc Nam bộ, tình cờ tôi chú ý thấy có tờ 500đ và 200đ có hàng chữ “Ngân hàng Nhân dân Nam bộ”.