Giàu trước và phân cực giàu nghèo
Quy luật xuyên suốt trong lịch sử của nhân loại, được Các Mác phát hiện vào những năm 40 thế kỷ XIX, đó là quy luật “Quan hệ sản xuất phù hợp với tình trạng của sức sản xuất” (Law of conformity of productive force). Sức sản xuất được xem là động lực phát triển quan trọng của lịch sử.
Việt Nam đang tiến hành đổi mới, khuyến khích một bộ phận dân giàu trước, nhưng liệu một bộ phận gọi là “giàu trước” này có thực hiện chức trách kéo mọi người giàu theo hay là trở thành số ít người ngày càng giàu, để lại phía sau đông đảo dân chúng đã nghèo lại càng nghèo thêm? Vấn đề được đặt ra là tình trạng giàu nghèo đã chuyển thành phân cực giàu nghèo của xã hội hay chưa?
Không phải ai cũng cho rằng xã hội Trung Quốc đã trở thành xã hội phân cực giàu nghèo, nhưng không ít nhà nghiên cứu đã khẳng định điều đó đang trở thành hiện thực ở Trung Quốc. Những nhà nghiên cứu căn cứ vào chỉ số đo mức độ công bằng và bất công theo chỉ số Gini (Gini coefficient), nếu chỉ số Gini bằng 0 có nghĩa là xã hội công bằng, nếu bằng 1 là xã hội bất công tột cùng. Vào năm 2002, chỉ số Gini ở Trung Quốc đo được là 0,4 có nghĩa là hiện tượng phân cực giàu nghèo ở Trung Quốc đã xuất hiện, 10% số người giàu nhất Trung Quốc chiếm đến 45% tài sản của xã hội. Người ta cho rằng tình hình bất công ở xã hội Trung Quốc hiện nay đã đến lúc cần phải báo động đỏ rồi!
Còn ở Việt Nam thì sao? Vào cuối tháng 3 – 2007, nghĩa là chỉ khoảng 1 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã có cuộc hội thảo đề cập đến tình hình khoảng cách giàu nghèo đang tăng nhanh ở Việt Nam.
Trong 14 năm, kể từ năm 1990 đến năm 2004 hệ số thu nhập chênh lệch bình quân đầu người của nhóm 20% cao nhất so với nhóm 20% thấp nhất trong cả nước cụ thể như sau: Năm 1990 là 4,1 lần, năm 1991 là 4,2 lần… năm 2002 là 8,1 lần, năm 2004 là 8,4 lần. Như vậy là hệ số chênh lệch tăng 2,05 lần. Chỉ số Gini ở Việt Nam năm 2002 là 0,42. Như vậy không cần đợi đến năm 2004 mà ngay ở năm 2002, Việt Nam đã có chỉ số Gini là 0,42, nghĩa là bằng chỉ số Gini ở Trung Quốc vào năm 2004, thời điểm mà Trung Quốc cho rằng tình trạng giàu nghèo đã bước sang ngưỡng của sự phân cực giàu nghèo. Nếu như cho rằng chỉ số Gini chưa chắc chắn đáng tin cậy vậy thì chỉ bằng “mắt thường” cũng có thể nhìn thấy những hiện tượng “bất bình thường” ở một xã hội mà “xoá đói, giảm nghèo” vẫn còn là nhiệm vụ thường trực. Không phải bất cứ “đại gia” nào ở các nước tư bản giàu có đều có thể tậu được những chiếc xe cực kỳ sang trọng như Rolls, Royce, Bentley… Vào năm 2009, hãng Maybach mới ra lò chỉ có 4 chiếc Rolls Royce, nhưng có ai ngờ một trong 4 chiếc đó đã hiện diện ngay tức thời trên đường phố Sài Gòn, cho dù giá cả của nó lên tới 20 tỷ đồng. Chưa hết, máy bay trực thăng tư nhân thản nhiên bay lượn trên bầu trời xanh để ngoạn cảnh trên đầu những người bên dưới đang còn phải sống nhờ vào… đống rác. Tuy rằng Việt Nam đổi mới chậm hơn Trung Quốc những 10 năm nhưng lại tiến tới ngưỡng phân cực giàu nghèo lại sớm hơn 2 năm, nếu như cách tính chỉ số Gini của cả hai bên là chính xác.
Như vậy, chấp nhận một bộ phận giàu trước cũng đâu dễ dàng gì để có thể làm cho mọi người trong xã hội cùng giàu? Hình như một bộ phận giàu trước ít khả năng kéo kẻ khác giàu theo nhưng lại nhiều cơ hội đẩy xã hội tới tình trạng phân cực giàu nghèo thì phải? Có lẽ không phải như vậy! Nên nhớ rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội có đúng với tinh thần của chủ nghĩa Mác hay không cũng thường bắt đầu từ nhận thức quy luật nói trên như thế nào.
Stalin trong Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sửgiải thích rằng “quan hệ sản xuất phù hợp với sức sản xuất” có nghĩa là “sức sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất như thế ấy”. “Phù hợp” (conformity) không phải lúc nào cũng “như thế ấy”, quan hệ giữa “quan hệ sản xuất” và “sức sản xuất” không phải chỉ có quan hệ thống nhất mà còn có quan hệ mâu thuẫn, có nghĩa là có lúc “như thế ấy” và “như thế kia” chứ không phải lúc nào cũng “như thế ấy”. Từ chỗ “như thế ấy” dẫn đến quan niệm phổ biến đến tận bây giờ, đó là “sức sản xuất quyết định quan hệ sản xuất”.
Người ta cho rằng đó chỉ là quan niệm của Mác. Lần đầu tiên Mác trình bày về quy luật “quan hệ sản xuất” trong Hệ tư tưởng Đức, sau đó trong Sự nghèo nàn của triết học, trong Tuyên ngôn của đảng cộng sảnvà hệ thống hoá trong Lời tựa, Phê phán kinh tế chính trị học, 1859,kể cả những tác phẩm về sau như Tư bản, Feủebach…Mác không bao giờ tuyên bố rằng “sức sản xuất quyết định quan hệ sản xuất” cả. Thậm chí có lúc Lê –nin đã cho người cầm vàng đi sưu tập bản thảo của Mác nhưng vẫn chẳng thấy ở đâu Mác tuyên bố như vậy cả. Chính vì quán triệt quan niệm “sức sản xuất quyết định quan hệ sản xuất” này cho nên hiện tượng sùng báo GDP, theo đuổi mục tiêu bình quân thu nhập đầu người bằng bất cứ giá nào, xem như đó là khâu then chốt, tự nó có thể giải quyết hết thảy mọi thứ trên đời.
Mác bao giờ cũng đánh giá cao động lực của sức sản xuất trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Mác cũng nói đến tính chất quyết định của sức sản xuất nhưng không phải sức sản xuất quyết định quan hệ sản xuất mà chỉ nói đến sức sản xuất quyết định phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất (Mode of production) không phải là khái niệm với nghĩa là bao gồm sức sản xuất và quan hệ sản xuất, nó là khái niệm trung gian giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất, vừa là sức sản xuất vừa là quan hệ sản xuất, là một trong ba khái niệm thuộc về sản xuất. Sản xuất bao gồm khả năng, trình độ sản xuất (sức sản xuất), phương thức, phương pháp, cách thức sản xuất (phương thức sản xuất) và quan hệ giữa những người sản xuất (quan hệ sản xuất). Phương thức sản xuất chính là khâu trung gian có thể định hướng cho sức sản xuất phục vụ đối tượng nào. Xã hội cùng giàu hay phân cực giàu nghèo cũng quyết định ở khâu trung gian này. Xưa nay thường xem nó như khái niệm ảo, có thể thay thế bằng sức sản xuất và quan hệ sản xuất cộng lại cho nên đã đánh mất tác dụng tích cực của nó trong điều hành sản xuất xã hội. Chính vì cho rằng sức sản xuất quyết định quan hệ sản xuất cho nên đã tuyệt đối hoá sức sản xuất, cho rằng sức sản xuất tự nó sẽ làm thay đổi quan hệ sản xuất. Chỉ cần quan hệ sản xuất công hữu đa số áp đảo là quan hệ sản xuất xã hội sẽ trở thành công hữu.
Thực ra công hữu hay tư hữu không phải là tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản nếu nó chỉ có danh mà không có thực. Sức sản xuất có phát triển hay không và đem lại lợi ích đến cho ai mới là điều quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội. Nếu chỉ có “công hữu” mà lại không thực hiện được điều đó thì “định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng chỉ là khẩu hiệu suông mà thôi.
Theo Lương Trị Bình, khái niệm “chế độ sở hữu” có lẽ là do dịch “nhầm”. Dịch “nhầm” một chữ làm cho luật pháp Trung Quốc khác hẳn luật pháp nước ngoài” (1). Tuy nhiên Lương cũng chỉ ra Hiến pháp của một số nước vẫn còn sử dụng khái niệm: “chế độ sở hữu” như Hiến pháp xã hội chủ nghĩa Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên năm 1972, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993. Lương Trị Bình so sánh sự khác nhau giữa hai niệm “quyền sở hữu” và “chế độ sở hữu”:
Thứ nhất, “quyền sở hữu” là khái niệm cổ xưa nhất, quan trọng nhất thuộc về pháp luật, “chế độ sở hữu” không phải là khái niệm pháp luật mà chỉ là thuật ngữ chính trị - kinh tế học.
Thứ hai, “quyền sở hữu” là một loại “vật quyền” đồng nhất với quyền lợi pháp luật về tài sản.
Thứ ba, ít ra là từ cận đại đến ngày nay, “quyền sở hữu” trở thành quyền lợi pháp luật phổ biến không phân biệt nặng nhẹ, cao thấp, còn “chế độ sở hữu” ở các nước có chế độ kinh tế khác nhau lại phân biệt nặng nhẹ, cao thấp” (2).
Nếu đem “chế độ sở hữu” như là cơ sở của quan hệ sản xuất, thế thì không biết “chế độ sở hữu” đó từ đâu mà ra, chẳng có liên quan gì với sức sản xuất cả. Hình như tất cả mọi thứ kể cả sức sản xuất, phương thức sản xuất và cả quan hệ sản xuất cũng đều từ đó mà ra cả. Việt Nam đã tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất trong khi đó chưa phải là đòi hỏi của sức sản xuất. Cho nên có người cho rằng sau hoặc đồng thời với cách mạng quan hệ sản xuất phải là cách mạng về sức sản xuất. Có lẽ quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với sức sản xuất” được nhận thức lộn ngược là do nguyên nhân của cái gọi là “chế độ sở hữu” từ trên trời rơi xuống này. Nguyên nhân của “duy ý chí” e rằng cũng từ đây mà ra. Nếu nó quả là thuật ngữ từ trên trời rơi xuống thì cũng nên trả nó về lại với trời cao vậy.
Sở dĩ Việt Nam xuất hiện cách mạng quan hệ sản xuất không phải với lý do là để “phù hợp với sức sản xuất”, bởi vì sức sản xuất không đủ cao, không đủ mạnh để có thể “bứt phá” làm cho quan hệ sản xuất trở thành công hữu, trở thành tiên tiến để mở đường cho chính nó. Do đó, quan hệ sản xuất xã hội, quan hệ sản xuất gọi là tiên tiến không thể tác động tích cực ngược lại đối với sức sản xuất. Quan hệ sản xuất tư hữu, thường được đồng nhất với chủ nghĩa tư bản, xem ra lại có phần “phù hợp” với sức sản xuất còn thấp kém. Chấp nhận một “bộ phận giàu trước” đồng nghĩa với việc khẳng định vai trò “tích cực” của tư hữu trong quan hệ sản xuất xã hội hiện hành.
Tính “tích cực” của tư hữu đối với sản xuất bao giờ cũng gắn liền với mục đích lợi nhuận ích kỉ của nó. Cho nên một khi nó có cơ hội làm giàu, cho dù với danh nghĩa gì, nó luôn luôn theo đuổi mục tiêu “giàu, giàu nữa, giàu mãi”. Với mục tiêu đó nó có thể sử dụng mọi thủ đoạn, kể cả chiêu bài hợp pháp “dân giàu nước mạnh”. Vì phương châm của chế độ sở hữu “kinh tế là trung tâm”, có nghĩa là ưu tiên hay tập trung cho sức sản xuất, cho nên rất dễ vô tình trở thành kẻ đỡ lưng, kẻ đồng hành không phải theo định hướng “cùng giàu” mà ngược lại đẩy xã hội đến bên bờ vực thẳm của sự phân cực giàu nghèo.
Có lẽ cũng cần nói rõ hơn về cái gọi là “xã hội cùng giàu”. Đời sống vật chất, đời sống kinh tế càng giàu có, càng sung túc là yêu cầu tất yếu, là lẽ đương nhiên, nhưng nên nhớ rằng đó không phải là mục đích tối cao, mục đích duy nhất của nhân loại. Ăng-ghen đã từng cảnh báo về chủ trương “chạy đuổi” làm giàu bất chấp mọi hậu quả.
“Lòng tham lam đê tiện là linh hồn của thời đại văn minh từ ngày đầu của thời đại ấy cho đến tận ngày nay; giàu có giàu có nữa và luôn luôn giàu có thêm, không phải là sự giàu có của xã hội mà là sự giàu có của cá nhân riêng rẽ, nhỏ nhen, đó là mục tiêu quyết định duy nhất của thời đại văn minh”.
Chí lí thay, đáng suy ngẫm thay, nhất là trong tình hình mà đạo đức xã hội đang có chiều hướng suy giảm, giàu nghèo phân hoá đang gia tăng!
Phấn đấu cho một xã hội cùng giàu, nhưng lại không xem đó là mục tiêu duy nhất, cuối cùng. Nghiên cứu, phát hiện quy luật tất yếu của xã hội nhưng không phải để hướng con người theo vương quốc tất yếu mà là vương quốc tự do.
Chú thích:
1/ Lương Trị Bình, Quyền sở hữu siêu và chế độ sở hữu, Nhã điển học viện.
2/ Tài liệu đã trích dẫn.








