Giải pháp nhằm nâng cao hoạt động khoa học công nghệ cơ sở
Sau khi có Thông tư liên tịch số 05/2008/TTLT- BKH&CN-BNV, ngày 18/6/2008 trong đó cho phép thành lập Phòng Quản lý KH&CN cơ sở và phân công quản lý nhà nước về KH&CN các huyện giao cho Phòng Công thương và thị xã giao cho Phòng Kinh tế. Sở KH&CN Đăk Nông đã vận dụng xây dựng mô hình quản lý với những giải pháp đồng bộ cả về cơ chế, chính sách và tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, từng bước nâng cao hoạt động KH&CN ở cơ sở, đó là:
1. Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý KH&CN từ tỉnh đến huyện và các cơ sở, các ngành trong tỉnh: công tác tổ chức KH&CN cấp cơ sở làm thế nào để vừa phát huy hết khả năng tiềm lực KH&CN của mỗi huyện, thị, vừa sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách dành cho KH&CN hàng năm. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có cán bộ chuyên trách quản lý KH&CN tại địa phương, hạn chế tình trạng thay đổi cán bộ, có kế hoạch đào tạo nhân lực dài hạn. Đồng thời, trong mỗi sở, ngành, mỗi phòng, ban ở huyện, thị cần có cán bộ phụ trách về công tác KH&CN để tạo mối liên kết giữa cơ quan quản lý KH&CN với các sở, ngành và các huyện, thị, để tạo sự phối hợp hoạt động tốt hơn.
2. Quan tâm thường xuyên và thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo: Hàng tháng, trong các cuộc giao ban khối huyện, thị thì công tác KH&CN phải được đưa vào chương trình và được xem như là một trong những nội dung không thể thiếu được. Ít nhất là hàng quý, các đơn vị quản lý KH&CN các huyện, thị và Sở KH&CN có trao đổi thông tin 2 chiều, hàng năm tổ chức ít nhất được 2 cuộc giao ban giữa Sở với các huyện, thị để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, nắm bắt nhu cầu thực tiễn và có những giải pháp hợp lý. Có làm được như vậy, các phòng chức năng, các ngành luôn nâng cao nhận thức về vai trò của KH&CN và tạo ra được một mạng lưới cán bộ, cơ quan tham mưu cho công tác KH&CN được xuyên suốt và liên tục.
3. Xây dựng lực lượng cán bộ KH&CN: Thống kê, xây dựng đội ngũ cán bộ KH&CN trên địa bàn các huyện, thị để sử dụng hợp lý, đồng thời thành lập Hội đồng KH&CN cấp huyện, thị xã. Đối với các ngành trong tỉnh cũng cần xúc tiến thành lập Hội đồng KH&CN ngành để phục vụ tốt cho công tác KH&CN của ngành.
4. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao năng lực chuyên môn trong công tác quản lý và hoạt động nghiên cứu: Hàng năm, Sở KH&CN cần giành một khoản kinh phí SNKH để thực hiện công tác đào tạo cho tất cả các cán bộ của hệ thống quản lý KH&CN, các thành viên hội đồng KH&CN các cấp, cán bộ hoạt động nghiên cứu khoa học trong tỉnh. Có như vậy, đội ngũ cán bộ mới đủ năng lực, trình độ, đáp ứng yêu cầu quản lý và đưa KH&CN vào đời sống sản xuất, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
5. Đầu tư thích đáng cho hoạt động KH&CN cấp huyện, thị, ngành: Thực tế hiện nay, trong danh mục phân bố kinh phí ngân sách của các huyện, thị gần như không có kinh phí dành cho sự nghiệp khoa học. Do đó, KH&CN rất khó khăn để hoạt động khi không được đầu tư, không có các trang thiết bị làm việc, trang thiết bị chuyên dùng… UBND các huyện, thị xã cần xem xét, có cơ chế đầu tư và phân cấp kinh phí cho hoạt động KH&CN một cách tương ứng với khối lượng công việc, ngoài kinh phí cho các nhiệm vụ chuyển giao, áp dụng TBKT.
6. Phân cấp quản lý và rút gọn thủ tục hành chính trong hoạt động KH&CN: Sở KH&CN cần nghiên cứu cơ chế phân cấp quản lý phù hợp theo năng lực quản lý trên địa bàn các huyện, thị, tạo sự chủ động trong công tác thu thập thông tin, nắm bắt tình hình, kiểm tra hoạt động. Đồng thời, xem xét rút gọn thủ tục trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KH&CN (trong đó, cần rút gọn yêu cầu lập thuyết minh và viết báo cáo nhiệm vụ khoa học). Đặc biệt là cơ chế đầu tư về tài chính, phân cấp quản lý, chi tiêu cho hoạt động KH&CN.
7. Tăng cường chuyển giao, áp dụng TBKT: Do các huyện, thị có những hạn chế về tiếp cận thông tin, đặc biệt là các thông tin về TBKT. Sở KH&CN cần tạo lập một "ngân hàng dữ liệu" về các TBKT để giới thiệu, tư vấn cho các huyện, thị lựa chọn, áp dụng. Đồng thời, nâng cao mức kinh phí chi cho các nhiệm vụ để kết quả áp dụng có quy mô rộng lớn hơn, đáp ứng nhanh chóng hơn cho sản xuất và đời sống ở địa phương.
8. Tổ chức hội thảo xác định nhiệm vụ khoa học trên địa bàn: Hội thảo xác định nhiệm vụ khoa học trên địa bàn huyện, thị được tổ chức luân phiên 02 lần/năm với sự tham gia của lãnh đạo Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, các sở, ban ngành và lãnh đạo Huyện uỷ, UBND huyện, thị, các phòng ban chức năng của huyện, thị và các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động KH&CN. Hội thảo nhằm đánh giá tình hình hoạt động KH&CN của huyện, thị xác định nhiệm vụ KH&CN của cơ sở và có phân công các ngành của tỉnh, giúp huyện xây dựng thuyết minh nhiệm vụ trình Hội đồng KH&CN huyện hoặc tỉnh xét duyệt theo quy trình.
9. Tổ chức "Chợ công nghệ và Thiết bị" trên địa bàn các huyện, thị phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn: Đây là một trong những loại hình hoạt động thông tin nhằm phổ biến rộng rãi các thành tựu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống phục vụ phát triển kinh tế - xã hội các vùng nông thôn. Chợ Công nghệ và Thiết bị luôn là cơ hội để cư dân nông thôn tìm hiểu các loại máy nông nghiệp, thiết bị bảo quản, chế biến sản phẩm, các quy trình kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi… Đặc biệt, cư dân nông thôn còn có thể trực tiếp trao đổi với các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà cung cấp về các vấn đề liên quan trong thực tế sản xuất và đời sống.
10. Đẩy mạnh việc xây dựng các điểm thông tin KH&CN trong các Trung tâm Giáo dục cộng đồng nhằm cung cấp thông tin cho cư dân nông thôn đồng thời xây dựng hệ thống quản lý KH&CN đến tận xã. Việc xây dựng mới và duy trì hoạt động của các điểm thông tin khoa học công nghệ cần phải có sự hỗ trợ của nguồn kinh phí SNKH.
11. Đầu tư hiện đại hoá hệ thống thông tin KH&CN 2 chiều giữa Sở và các phòng Kinh tế, phòng Công thương: Mỗi phòng Công thương các huyện và phòng Kinh tế thị xã được trang bị bổ sung máy vi tính, máy in, máy chụp hình kỹ thuật số, trang bị bàn ghế làm việc, tủ tài liệu, cơ sở dữ liệu KHCN và đào tạo cán bộ quản lý khai thác hệ thống mạng… để có điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động.








