Gia số sinh học - biện pháp phòng chống lũ lụt hiệu quả và lâu dài
Nhiều biện pháp tích cực phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại đã được các địa phương áp dụng với sự cố gắng từ nội lực kết hợp với đầu tư giúp đỡ của Trung ương. Thế nhưng, tình hình lũ lụt diễn biến phức tạp, gây thiệt hại khó khăn không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế, xã hội của các tỉnh Tây Nguyên. Theo các kết quả nghiên cứu về các yếu tố tự nhiên như: khí hậu, địa chất, thổ nhưỡng, thảm thực vật, đặc điểm là dòng chảy thì ở Tây Nguyên có thể áp dụng được nhiều biện pháp phòng chống lũ lụt có hiệu quả; trong số đó biện pháp gia cố sinh học được xem là ưu điểm vượt trội bởi nó mang tính bền vững lâu dài và gắn kết được nhiều lợi ích kinh tế, xã hội khác. Có hai hình thức trong thực hiện biện pháp gia cố sinh học: khoanh nuôi, phục hồi nơi rừng có thể tái sinh và trồng rừng nơi đất trống đồi núi trọc.
Khoanh nuôi, phục hồi rừng trong điều kiện nhiệt đới ẩm, nơi có cây tái sinh là biện pháp khả thi và rẻ tiền. Nó khá phù hợp với Tây Nguyên bởi nơi đây có địa hình phức tạp, phân bố dân cư còn thưa, điều kiện khí hậu thổ nhưỡng thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của nhiều loại cây, trong khi hệ thực vật ở các khu rừng khá phong phú với nhiều hệ - loài có khả năng tái sinh cao và phát triển nhanh; tập quán sinh hoạt và sản xuất của đồng bào các dân tộc ở đây đã có sự gắn kết chặt chẽ, lâu dài với thiên nhiên. Các nơi nên chọn để khoán nuôi, phục hồi rừng là các đỉnh núi, chỏm đồi, nơi đầu nguồn các sông suối. Khi khoanh vùng, cần phải dựa vào kết quả phân tích đặc điểm khí hậu thuỷ văn nhất là sự phân bố mưa, nhiệt, ẩm, dòng chảy; xem xét kĩ mức độ lũ lụt hàng năm cũng như khả năng tái sinh của rừng. Có một thực tế ở Tây Nguyên là tình trạng phá rừng làm nương rẫy tăng mạnh trong các năm cuối thế kỷ XX, nay vẫn chưa thuyên giảm là bao nhiêu. Với khai thác rừng vượt ra ngoài phạm vi cho phép, lạm dụng khai thác ở những nơi có nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất đang làm đất rừng co hẹp lại nhanh chóng và khó có điều kiện tái sinh. Mặt khác rừng vẫn bị cháy với hàng ngàn ha mỗi năm mà nguyên nhân một phần là do những diễn biến cực đoan của thời tiết. Nhưng phần lớn là sự thiếu ý thức hoặc vô trách nhiệm hoặc cố ý của một số người mà nay vẫn chưa có biện pháp ngăn chặn triệt để. Để rừng phục hồi, cần tổ chức bảo vệ, nghiêm cấm việc chặt phá, đốt rừng một cách nghiêm ngặt. Đối với rừng đã bắt đầu khép tán cần có biện pháp nuôi dưỡng và tạo điều kiện để rừng phát triển nhiều tầng, nhiều lớp, v.v.
Chiến tranh và nạn phá rừng đã làm cho gần 1/4 diện tích của Tây Nguyên trở thành đất trống đồi núi trọc bị hoang hóa hoặc thành nương rẫy. Nếu không nhanh chóng phủ xanh cây rừng thì phần diện tích này sẽ trở nên cằn cỗi bởi sự rửa trôi, xói mòn đồng thời kéo theo những thiên tai khôn lường như nứt trượt đất, lũ quét, lũ bùn, v.v. đe doạ tới tính mạng con người, làm giảm tuổi thọ của nhiều công trình, làm mất cân bằng sinh thái của nhiều lưu vực sông suối và vùng đất lân cận. Do đặc điểm của lũ, trồng rừng phòng chống lũ nhằm chủ yếu vào việc khống chế dòng chảy mặt và xói mòn, trượt lở đất nên cần thoả mãn một số nguyên tắc sau:
1. Phải đảm bảo được diện tích phòng hộ thoả đáng để phát huy vai trò điều tiết nước, bảo vệ đất;
2. Các băng rừng phải được bố trí theo đường đồng mức có bề rộng thích hợp để phát huy tối đa khả năng ngăn dòng chảy mặt và xói mòn đất;
3. Có kết cấu nhiều tầng, phân bố nơi xung yếu.
Trên mỗi lưu vực sông, tùy mức độ xung yếu và đặc điểm mưa lũ mà chọn vị trí, diện tích (tỷ lệ rừng so với diện tích lưu vực), số đai rừng, bề rộng đai rừng, kết cấu đai rừng và loại cây được chọn. Việc phân chia cấp xung yếu cho lưu vực được tiến hành trên cơ sở phân tích nguy cơ lũ và bản đồ phân loại thảm thực vật theo chức năng phòng hộ. Có thể chia thảm thực vật làm 5 mức:
- Rất xung yếu: thảm là dạng cây bụi, cỏ thưa, độ tàn che dưới 0,3. Đây là dạng thảm thực vật ở vùng đất trống, đồi núi trọc (K = 1).
- Xung yếu: là nơi có các lớp cây bụi, thảm cỏ tranh, lau lách, độ tán che lớn hơn 0,3. Đây là dạng thảm thực vật ở các khu rừng trồng thuần loại, vuờn cây ăn trái, cây công nghiệp chưa khép tán (K = 0,75).
- Ít xung yếu: rừng hai tầng có độ tàn che 0,3 – 0.6. Đây là rừng trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, rừng tre nứa, rừng non mới phục hồi có độ tàn che >0,6 (K = 0,5).
- Không xung yếu: dạng thảm thực vật ở các khu rừng 3 tầng tán có độ tàn che 0,3 – 0,6, rừng hai tầng có độ tàn che >0,7 (K = 0,75).
- An toàn: dạng thảm thực vật ở các khu rừng 3 tầng tán có độ tàn che >0,7 (K = 0).
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, tỉ lệ che phủ rừng phải đạt từ 50% - 70% mới đảm bảo độ an toàn về môi trường, mà trong đó diện tích rừng chuyên phòng hộ phải đạt trên 30%. Đối với các lưu vực sông suối nhỏ miền núi nước ta thì tỉ lệ rừng hợp lý để hạn chế khả năng sinh lũ lớn phải đạt trên 30%. Diện tích đai rừng được xác định dựa vào tỉ lệ rừng cần thiết và độ rộng cần thiết của mỗi đai. Do mục đích ngăn dòng chảy mặt, hạn chế xói mòn nên đai rừng càng rộng càng tốt tuy nhiên cũng cần lưu ý đến đất cho sản xuất và cho mục đích khác. Chiều rộng đai rừng điều tiết nước, phòng lũ tính theo công thức kinh nhiệm của Kharitonov:
B = (Mm x L T x i x 100) : K,
Trong đó: B là chiều rộng của đai rừng (m)
Mm là mô đun dòng chảy lớn nhất (1/s.km 2) ứng với rần suất 5%;
L T là chiều dài từ đường phân nước đến mép trên đai rừng (m);
i là độ dốc sườn dốc;
K là hệ số thấm (mm/s).
Ở Việt Nam nói chung, Tây Nguyên nói riêng lũ phụ thuộc chủ yếu vào lượng mưa và cường độ mưa nên công thức Kharitonov đã được cải tiến cho phù hợp:
B = a x (Mm x L T x i x Ir) : K,
Trong đó: a là hệ số;
Ir là cường độ mưa (mm/h).
Vị trí đai rừng được bố trí phụ thuộc vào dạng mặt dốc theo hình thức đường đồng mức: Mặt đốc lồi, phần chân dốc thường có độ dốc lớn nên các đai rừng tập trung ở chân dốc. Mặt dốc lõm, phần độ dốc tập trung ở trên đỉnh nên các đai thường được bố trí ở ngay gần đỉnh. Mặt dốc hỗn hợp, các đai rừng nên bố trí trực tiếp ngoài thực địa.
Cây được lựa chọn để trồng rừng phòng lũ cũng cần chọn lọc kĩ nhằm đảm bảo các điều kiện như: Thích hợp với điều kiên sinh thái, khí hậu nơi trồng; phải có tán dày, rộng, cành lá rậm rạp; có bộ rễ phát triển sâu, rộng và cố định để tạo điều kiện nước thấm sâu; có khả năng mọc nhanh, sinh trưởng mạnh, tái sinh tốt và mọc lâu năm; chịu được đất xấu, nghèo và khô hạn. Tạo rừng phòng hộ, phòng chống lũ nhất thiết phải tạo rừng hỗn giao, nhiều tầng giữa cây lớn và cây bụi; phải trồng dày mới phát huy được tác dụng của rừng phòng hộ.
Trong nhiều biện pháp phòng chống lũ cần kết hợp biện pháp xây các công trình hồ chứa để điều tiết lũ, xây dựng hệ thống để ngăn nước lũ, v.v. Tuy nhiên, với Tây Nguyên do địa hình chia cắt mạnh, đa số sông suối nhỏ nên mỗi công trình chỉ phát huy trong phạm và mức độ rất nhỏ. Hơn thế, với sức tàn phá của lũ lụt, mọi vật liệu như bê tông, gạch, đá… đều dần bị phá hỏng nên hiệu quả công trình giảm theo thời gian, đòi hỏi mức đầu tư lớn trong thi công xây dựng và tu bổ. Vì vậy, biện pháp gia cố sinh học không chỉ giúp phòng chống lũ trong mùa mưa mà còn tạo điều kiện thuận lợi để tích nước tự nhiên, cung cấp cho mùa khô.
Nguồn: Thông tin khoa học vàcông nghệ số 3/2005







