Dược thảo chữa bệnh mùa nóng
Mùa viêm nhiệt ở nước ta thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 dương lịch. Những ngày nhiệt độ cao là từ tháng 6 đến tháng 8, thường 33-40 độ C, có khi trên 40 độ C. Khi nhiệt độ không khí gần bằng nhiệt độ cơ thể (35-36 độ C) sẽ sinh ra bức bối khó chịu vì cơ thể khó thải nhiệt, tuyến mồ hôi phải hoạt động hết công suất để thải nhiệt và độc ra ngoài, mồ hôi nhiều thì lượng nước tiểu giảm.
Nhiệt độ cao, độ ẩm cao cũng là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn, virut, nấm mốc phát triển. Vì vậy từ trẻ em đến người lớn dễ mắc các chứng bệnh như cảm (cảm nóng, cảm nắng, nhưng cũng có khi cảm lạnh), mụn, nhọt, ngứa lở và một số bệnh do virus (như viêm họng, viêm não, sốt xuất huyết). Do đó, các loại dược thảo thanh nhiệt, lợi tiểu được sử dụng làm chủ vị trong các bài thuốc sau:
Thanh nhiệt giải thử : Ruột dưa hấu (tây qua), vỏ dưa hấu (tây qua bì), lá tre tươi (trúc diệp), lá sen tươi (hà diệp), rễ lau (lô căn)... để chữa các bệnh chứng do nắng, nóng trực tiếp gây ra.
Thanh nhiệt tư hỏa : Huyền sâm, quả dành dành (chi tử), hoàng cầm, hoàng liên, rễ lau, lá tre tươi, cỏ nhọ nồi (hạn niên thảo), cối xay, để chữa các chứng sốt cao do thời khí, do vi khuẩn, virus, nấm... gây ra.
Thanh nhiệt lương huyết : Sinh địa, hoa hòe (nụ hòe), cỏ nhọ nồi, huyền sâm, quả dành dành, hoàng cầm, rễ cỏ tranh (bạch mao căn)... để chữa các chứng bệnh do huyết nhiệt gây ra như nước tiểu đỏ, chảy máu cam.
Thanh nhiệt giải độc : Kim ngân, bồ công anh, sài đất, liên kiều, thổ phục linh, huyền sâm, củ sắn dây (cát căn), xuyên tâm liên, rễ chàm nhuộm (bản lam căn)... để chữa các chứng viêm nhiễm do vi khuẩn, virut, nấm hoặc dị ứng.
Chữa cảm nắng - cảm nóng
Vỏ dưa hấu tươi gọt bỏ vỏ xanh 20 g; lá sen tươi 20 g; hoa bạch biển đậu tươi 15 g; hoa kim ngân tươi 15 g (hoặc 5 g khô); búp tre cuộn như cái tăm (trúc diệp tâm) 10 g. Sắc lấy 500 ml thuốc chia làm 3 lần uống. Chữa người cảm nóng sốt cao ra mồ hôi, tim hồi hộp, đái ít, miệng khát, lưỡi rộp.
Chữa mụn nhọt, lở ngứa, dị ứng
Thuốc uống: Kim ngân hoa 10 g (hoặc kim ngân dây lá 20 g); liên kiều 10 g, thổ phục linh 15 g; huyền sâm 10 g. Sắc uống mỗi ngày một thang trong 10 ngày. Nếu đi lỏng thì bỏ huyền sâm.
Thuốc đắp: Nếu đinh nhọt độc mới phát (đau nhức không chịu được), lấy lá hy thiêm tươi hoặc lá vòi voi tươi một nắm (khoảng 100 g), rửa sạch giã nát với vài hạt muối, chia làm 3 lần đắp trong ngày (24 giờ), dùng liên tục 2-3 ngày là tiêu nhọt độc. Kết hợp với uống bài thuốc tiêu độc nói trên.
Nếu đinh nhọt đã nung mủ, lấy lá táo bánh tẻ một nắm (100 g), rửa sạch giã nát với vài hạt muối, chia làm 3 lần đắp trong ngày (24 giờ). Thuốc sẽ làm cho đinh nhọt mau vỡ mủ, khi vỡ mủ rồi phải rửa sạch bằng nước muối loãng (2%) hoặc nước vối đặc rồi đắp tiếp thuốc mới để hút mủ. Kết hợp với uống bài thuốc tiêu độc nói trên.
Thuốc rửa: dùng khi ngứa, lở hoặc mụn nhọt đã vỡ mủ: Lá vối tươi một nắm (100 g) cắt nhỏ hoặc vò nát nấu với một lít nước. Đun sôi 15 phút, để nguội cho vào chai sạch để tiệt trùng.
Chữa viêm họng, viêm amidan do vi khuẩn
Thuốc uống: Kim ngân hoa 10 g, lá dâu 10 g, mạch môn 10 g, cát cánh 10 g, huyền sâm 15 g. Nếu ho có đờm khó ra thì thêm trần bì 10 g. Sắc nước uống ngày một thang. Chia làm 4 lần uống trong ngày, dùng 10 ngày, khi uống ngụm thuốc trong miệng rồi nuốt dần.
Thuốc súc họng: Muối ăn 15 - 20 g. Nước uống được 1.000 ml. Đun sôi nước muối trong 15 phút, để nguội, cho vào chai sạch có nút để tiện dùng. Mỗi ngày súc họng 3 lần, sau khi ăn đánh răng súc miệng rồi súc họng (sáng, trưa, tối).
Nguồn: vnexpress.net 16/7/2005