Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 03/08/2010 16:55 (GMT+7)

Dự án khai thác, chế biến bauxit Tây Nguyên và vấn đề môi trường

Trên thế giới, những nước có tiềm năng bauxit lớn là: Guinea(16 tỷ tấn), Australia(13,1 tỷ tấn), Brazil (4,4 tỷ tấn), Jamaika (4,5 tỷ tấn), sau đó là Ấn độ, Camơrun. Các nước có trữ lượng bauxit trung bình là: Mỹ, Na Uy, Iran, Tây Ban Nha, Italia, Canada,… Một số nước có trữ lượng nguyên liệu nhôm cũng khá lớn, nhưng không phải là bauxit mà là các khoáng sản khác có chứa nhôm như nefelin (natri aluminosilicate-Na 2O.2SiO 2.Al 2O 3.2H 2O), kianit (Al 2SiO 5), alunit (còn gọi là phèn chua – KAl 3(SO 4) 2(OH) 6)…

Trữ lượng bauxit của Nga không lớn, chỉ vào khoảng 450 triệu tấn, do vậy, ngoài bauxit, họ còn dùng các loại quặng nefelin, đa khoáng nefelin-apatit và alunit làm nguyên liệu sản xuất nhôm. Các khoáng sản chứa nhôm lớn nhất của nước này tập trung ở phần lãnh thổ thuộc châu Âu (tới 40% bauxit, 80% nefelin và 90% kianit) và ở Uran.

Về sản lượng bauxit (quặng tinh) hằng năm, dẫn đầu thế giới gồm có (số liệu năm 2004): Australia(56 triệu tấn), Brazil(18,5 tấn), Guinea (15,5 tấn), Trung Quốc (15,0 triệu tấn)…

Việt Nam là một trong những nước có tiềm năng bauxit lớn – với tổng trữ lượng dự báo tới 5,3 tỷ tấn, trong đó miền Bắc chỉ có 90,95 triệu tấn. Phần còn lại là của miền Nam, tới 5.205,45 triệu tấn, tập trung ở 5 tỉnh Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đăk Nông và Lâm Đồng). Đăk Nông là tỉnh có tiềm năng bauxit lớn nhất – 3.424,466 triệu tấn, chiếm tỷ lệ 64,6% trữ lượng cả nước.

Theo quy hoạch khai thác, chế biến bauxit vùng Tây Nguyên thì trong thời gian 2007-2015 sẽ xây dựng 4 nhà máy alumin, Nhà máy No 1 công suất ban đầu 0,3 tr.t/năm, có khả năng nâng lên 0,6 tr.t/năm, 3 nhà máy còn lại đều có công suất 1,5 tr.t/năm. Các nhà máy đều được lần lượt xây dựng ở Đăk Nông và do TKV đầu tư. Ngoài ra, còn xây dựng thêm các nhà máy alumin Tân Rai-Bảo Lộc (Lâm Đồng), công suất 1,2 tr.t/năm và nhà máy KonpLong-Kanăk (Kon Tum), công suất 1-1,5 tr.t/năm. Giai đoạn 2016-2025, tình hình thị trường cụ thể mà mở rộng công suất các nhà máy cho thích hợp.

Như vậy, tới năm 2015 các mỏ bauxit Tây Nguyên phải đảm bảo sản lượng khoảng 54-75 triệu tấn quặng nguyên khai nhằm thu hồi 21,5-30 triệu tấn quặng tinh cung cấp cho các nhà máy để sản xuất ra 7,2-8,3 triệu tấn alumin. Diện tích đất đai (rừng) bị chiếm dụng để phục vụ cho các công trình khai thác ở thời điểm đó lên tới khoảng 1.600 ha/năm.

Cũng như mọi hoạt động khai thác khoáng sản khác, việc triển khai dự án khai thác chế biến bauxit Tây Nguyên nói chung và Đăk Nông nói riêng sẽ gây ra những tác động xấu tới các yếu tố môi trường như:

Làm biến dạng địa mạo và cảnh quan khu vực do đào, đắp, đổ thải đất đá, chặt phá cây rừng, xây dựng nhà máy,…

Thu hẹp diện tích đất trồng trọt và đất rừng do mở khai trường, đổ đất đá thải, hồ chứa quặng đuôi của nhà máy tuyển, hồ chứa bùn đỏ và bùn oxalat của nhà máy alumin…

Làm ảnh hưởng đến điều kiện thời tiết khí hậu khu vực do diện tích thảm thực vật bị thu hẹp, rừng đầu nguồn bị chặt phá…

Làm bẩn nước và đất đai quanh mỏ do hoá chất sử dụng, quặng đuôi sau tuyển, bùn đỏ, bùn oxalat, rác thải công nghiệp và sinh hoạt…

Phát thải bụi và khí độc hại vào không khí từ các hoạt động khoan, nổ mìn, vận tải, xúc bóc, đổ thải, nghiền đập quặng… và hoạt động của các thiết bị dùng động cơ điezen.

Làm ảnh hưởng tới tính đa dạng sinh học (động, thực vật trên cạn dưới nước) trong khu vực do tất cả các hoạt động phát triển của dự án.

Xáo trộn đời sống kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán của nhân dân bản địa, đặc biệt là đồng bào các dân tộc ít người.

Trong các tác động nêu trên thì sự quan tâm, lo lắng của nhiều người (trong đó có ý kiến đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng) tập trung vào các vấn đề lớn là: nguy cơ phát tán các chất thải độc hại (bao gồm các hoá chất sử dụng, quặng đuôi sau tuyển, bùn đỏ và bùn oxalat) ra môi trường khu vực các vùng lân cận nguy cơ biến đổi thời tiết khí hậu vùng do thu hẹp diện tích rừng đầu nguồn, dẫn đến gia tăng lũ lớn về mùa mưa, hạn hán kéo dài về mùa khô, làm thất thu mùa màng vùng hạ lưu là các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận; làm xáo trộn đời sống kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán của nhân dân bản địa, đặc biệt là đồng bào các dân tộc ít người; hậu quả xấu để lại sau khai thác.

1. Dự án có kiểm soát được các chất thải độc hại không?Dự án khai thác, chế biến bauxit Tây Nguyên có nguồn phát thải các chất độc hại vào môi trường chủ yếu là quặng đuôi sau khi tuyển, bùn đỏ và bùn oxalat từ khâu rửa bã cuối cùng của dây chuyền công nghệ. Nếu Dự án đi vào hoạt động và đạt sản lượng alumin theo bản Quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là 7,2-8,3 tr.t/năm (năm 2015) thì khối lượng chất thải của dự án là:

Khối lượng bùn thải quặng đuôi sau tuyển: 233,95-269,69 tr.m 3/năm.

Khối lượng bùn đỏ: 6,048-6,972 tr.tấn/năm.

Khối lượng bùn oxalat: 7,344-8,466 tr.tấn/năm.

Thành phần chủ yếu của bùn thải quặng đuôi bao gồm oxyt nhôm, oxyt sắt, oxyt silic… và bùn sét. Thành phần chủ yếu của bùn đỏ bao gồm hematit (Fe 2O 3), natrisilico aluminat, canxi titanat, nhôm ngậm nước (Al 2O 3.H 2O và Al 2O 3.3H 2O). Thành phần chủ yếu của bùn oxalate bao gồm Al 2O 3-13,3%, CaO-31,3% và Na 2C 2O 4-10,6%, còn lại 45% là các tạp chất khác.

Theo sơ đồ công nghệ, khối lượng bùn thải này được khống chế trong các bãi thải bùn (hồ lắng) có đáy được gia cố bằng vật liệu chống thấm (đất sét, vải địa kỹ thuật…) để ngăn không cho nước mang theo các chất độc hại thẩm thấu ra ngoài, làm ô nhiễm môi trường đất và nước ngầm khu vực. Nước lắng từ bùn thải quặng đuôi được sử dụng tuần hoàn để rửa quặng thô, nước lắng (chảy qua đập tràn) từ bùn đỏ và bùn oxalate có tính kiềm, được tận dụng một phần để rửa cát lần 1 nhằm tiết kiệm chi phí xút, phần lớn còn lại được thải ra môi trường sau khi đã trung hoà bằng axit (H 2SO 4).

Với tiềm lực kinh tế và trình độ công nghệ-kỹ thuật hiện nay của các doanh nghiệp, kết hợp với những bài học tiếp nhận được từ các nền sản xuất bauxit tiên tiến nước ngoài thì việc khống chế và kiểm soát nguy cơ phát tán các chất thải độc hại từ bùn thải trong quá trình khai thác và chế biến bauxit vào môi trường là hoàn toàn có thể. Tuy nhiên, vấn đề lưu ý ở đây là cần có những giải pháp hữu hiệu để phòng sự cố nước mưa chảy tràn. Mưa ở vùng Tây Nguyên thường tập trung theo mùa, từ tháng 4 đến tháng 10. Lượng nước mưa trung bình hằng năm là 2.339mm, tháng 8 có lượng mưa lớn nhất, khoảng 500-550 mm. Mưa lớn có thể gây lũ lớn, lũ quét, làm cho bùn thải từ các hồ chứa tràn ra ngoài, mang theo các chất thải độc hại xuống vùng hạ lưu ở triền Tây Trường Sơn và các tỉnh lân cận thuộc nước bạn Campuchia.

2. Sự tổn thất rừng đầu nguồn do quá trình hoạt động của dự án có dẫn đến hậu quả trầm trọng về thời tiết khí hậu vùng hay không?Để trả lời chính xác câu hỏi này cần có những nghiên cứu nghiêm túc mang tính khoa học của các nhà chuyên môn. Tuy nhiên, dựa vào các số liệu thống kê có thể đưa ra những nhận xét trực giác sau: Theo chương trình Kiểm kê Rừng NN 12-2002, Tây Nguyên có khoảng 2.373.116ha rừng. Theo Viện Điều tra và Quy hoạch Rừng, trong thời gian 1975-1995, Tây Nguyên mất 440.000ha rừng tự nhiên, chiếm 18,5% rừng Tây Nguyên lúc bấy giờ. Theo đề tài KHCN-07-05, trong thời gian 1996-2000, Tây Nguyên hằng năm mất 10.000ha rừng tự nhiên, chiếm 2,1% diện tích lúc bấy giờ. Theo số liệu cập nhật trên báo điện tử của Cục Kiểm lâm Việt Nam thì diện tích và tỷ lệ rừng bị mất từ năm 2003 đến năm 2007 giới thiệu ở Bảng 1.

Các chỉ tiêu

Diện tích đầu năm (ha)

2003

2004

2005

2006

2007

D.tích rừng tự nhiên

2.898.478

2.867.435

2.848.310

2.828.657

2.824.837

D.tích rừng bị mất

31.043

19.125

19.653

3.820

131,68

Tỷ lệ (%)

1,07

0,67

0,69

0,14

0,05

Trong khi đó, nếu Dự án bauxit Tây Nguyên đi vào hoạt động và đạt sản lượng alumin (của năm cao nhất-2015) theo bản Quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là 7,2-8,3 tr.t/năm thì diện tích rừng bị phá cho mục tiêu khai thác bauxit sẽ vào khoảng 1.600ha/năm, tương đương 0,06% diện tích rừng Tây Nguyên hiện tại.

Nêu phân tích một cách chi tiết hơn thì thấy rằng, phần lớn các mỏ bauxit đều tập trung trên lãnh thổ tỉnh Đăk Nông, nằm triền phía Tây dãy Trường Sơn, có độ cao địa hình thấp hơn (trung bình 600-700m) so với 4 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk và Lâm Đồng (trung bình 800-1.200m), là những tỉnh nằm phía Đông dãy Trường Sơn, chịu tác động trực tiếp của các hướng gió chính là đông nam và đông bắc, đó là những hướng gió có ảnh hưởng lớn đến điều kiện thời tiết khí hậu khu vực Nam Trung bộ. Diện tích mà khai mỏ chiếm dụng của 4 tỉnh Đông Trường Sơn hằng năm là 300ha, tương đương 0,012% diện tích rừng ở đây. Đó là một tỷ lệ rất nhỏ so với diện tích rừng bị phá hằng năm. Vậy thì không thể kết luận là việc chiếm dụng rừng để khai thác mỏ sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng về thời tiết khí hậu khu vực được! Tỉnh Đăk Nông là tỉnh có diện tích rừng nhỏ hơn nhưng lại có nhiều mỏ hơn và diện tích rừng bị chiếm dụng hằng năm cho khai thác bauxit cũng chỉ tới 0,036%, trong khi tỷ lệ rừng tự nhiên bị phá của năm 2007 theo số liệu thống kê của Cục Kiểm lâm là 2,98% (10,5ha/352.235ha). Mặt khác, khảo sát thực tế còn thấy rằng các thân quặng bauxit Đăk Nông được cấu tạo từ những vỏ phong hoá laterit bao bọc phần đỉnh của đồi và ở đây hầu như không tồn tại các cây thân gỗ mà chỉ xuất hiện các cây dạng bụi và cỏ dại mọc cẵn cỗi trên lớp đất phong hoá dày 0,3-0,5m. Cây thân gỗ chỉ có và phát triển ở phần chân đồi, nơi không có (hoặc có không đáng kể) quặng bauxit. Điều đó có nghĩa là, việc khai thác bauxit ở Đăk Nông có ảnh hưởng không đáng kể tới việc triệt phá cây rừng và sau khi khai thác hết bauxit, tiến hành hoàn thổ và trồng lại (nói đúng hơn là trồng mới) rừng với giống cây thích hợp thì thảm thực vật khu vực sẽ được cải thiện một cách đáng kể về cả số lượng lẫn chất lượng. Bởi vậy, ý kiến cho rằng quá trình hoạt động của dự án sẽ dẫn đến hậu quả trầm trọng về thời tiết khí hậu vùng hạ lưu phía Đông Tây Nguyên là chưa đầy đủ căn cứ.

3. Dự án sẽ tác động như thế nào đến đời sống kinh tế-xã hội và phong tục tập quán của đồng bào dân tộc ít người?Trước hết phải kể đến những lợi ích mà dự án mang lại là: hằng năm đóng góp về kinh tế cho địa phương hàng chục tỷ đồng từ các loại thuế; sự hình thành cụm kinh tế công nghiệp khu vực sẽ kéo theo sự phát triển các ngành kinh tế dịch vụ như giao thông vận tải, thương nghiệp, khách sạn và du lịch, vui chơi giải trí, dịch vụ ăn uống… Đây là tiền đề để tạo nên sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế khu vực: từ thuần nông lâm nghiệp chuyển sang kinh tế đa ngành nghề, trong đó công nghiệp là thành phần kinh tế cơ bản. Xét ở góc cạnh tích cực khác, hoạt động khai thác bauxit sẽ tạo ra những cộng đồng dân cư mới, những đô thị mới; thổi thêm ánh sáng văn hoá vào vùng sâu vùng xa; tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn con em địa phương, nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao dân trí cho một bộ phận không nhỏ dân cư vùng miền núi xa xôi hẻo lánh này.

Tuy nhiên, ở chừng mực nhất định, dự án khai thác và chế biến bauxit Đăk Nông đưa vào hoạt động cũng sẽ làm xáo trộn đời sống kinh tế, phong tục, tập quán và văn hoá xã hội của một bộ phận khá lớn người dân bản địa: thay đổi nơi sinh sống do phải di rời, dẫn đến thay đổi các mối quan hệ cá thể, gia tộc cũng như cộng đồng; thay đổi phương thức sinh sống (một số người có thể không có công ăn việc làm do mất hết đất canh tác); sự thu hút một số lượng khá đông nhân lực từ miền xuôi, từ thành thị vào doanh nghiệp sẽ kéo theo một bộ phận có tư chất xấu (cờ bạc, rượu chè, mại dâm…) tác động tiêu cực vào đời sống đơn giản, lành mạnh của bà con dân tộc ít người, ngay cả nền văn hoá hiện đại mà cộng đồng dân trí cao của doanh nghiệp cũng có thể làm biến dạng và lai căng bản sắc văn hoá dân tộc của người dân bản địa, đặc biệt đối với tầng lớp thanh niên.

Để hạn chế tới mức có thể những tác động tiêu cực nói trên, rút bài học từ những dự án khác trong vấn đề “di dân, giải phóng mặt bằng và tái định cư” có thể áp dụng các giải pháp sau:

Ưu tiêu tuyển chọn, dạy nghề và giúp con em địa phương vào làm việc trong doanh nghiệp với số lượng tối đa có thể.

Tái định cư theo cộng đồng gia tộc và thôn xã.

Coi công tác xoá đói giảm nghèo, phúc lợi công cộng, giúp người dân bản địa nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao dân trí, hiểu rõ giá trị và biết giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là nhiệm vụ không kém phần quan trọng bên cạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh, có thế mới đảm bảo được sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp.

Do đặc điểm về cấu tạo địa chất của khoáng sàng Đăk Nông, cần tiến hành khai thác và hoàn thể theo hình thức cuốn chiếu (với thời hạn khoảng 2-3 năm), sau đó trả lại đất cho dân (tức là chỉ thuê đất của dân chứ không trưng thu đất và đền bù cho dân như các dự án khác đã làm), có như thế thì người dân mới không bị mất hết đất đai và lại có thể tiếp tục sống với nghề truyền thống của mình.

4. Vấn đề hoàn thổ và phục hồi môi trường sau khi kết thúc mỏ?

Vấn đề phục hồi môi trường, đất đai sau khai thác cần được xem xét một cách khách quan và cụ thể hơn. Về tổng thể, khai thác mỏ lộ thiên là hoạt động gây nhiều biến động đối với địa hình, địa mạo và cảnh quan khu vực, dẫn đến sự suy giảm giá trị sử dụng đất đai so với trạng thái nguyên thuỷ, khi dự án khai thác chưa đưa vào hoạt động. Tuy nhiên, nếu coi đó là nhân quả duy nhất thì đó là một đánh giá phiến diện và thiếu công bằng. Trong thực tế hoạt động khai thác mỏ nói chung của thế giới và Việt Nam đã có không ít những trường hợp mà đất đai của vùng mỏ cũ (được phục hồi sau khai thác) có giá trị cao hơn nhiều so với giá trị ban đầu trước khi mở mỏ và không chỉ cho mình nó mà còn kéo theo sự gia tăng giá trị của vùng đất lân cận. Bauxit Đăk Nông sẽ là một trường hợp như vậy. Đặc điểm cấu tạo địa chất của khoáng sàng bauxit Đăk Nông là các thân quặng được hình thành dưới dạng những vỏ phong hoá laterit bao bọc phần chóp của các đồi thấp, có chiều dày không lớn, trụ vỉa là đất đá bazan phong hoá bở rời, dễ cải tạo để có chất lượng phù hợp với điều kiện sinh trưởng của một số loài cây công nghiệp như cao su, hồ tiêu, cà phê,… Bởi vậy, sau khai thác, việc hoàn thổ sẽ mang lại cho đất đai một giá trị mới. Sự gia tăng giá trị đất đai của Đăk Nông (nói chung) không chỉ do chất lượng đất được cải thiện (bóc bỏ lớp quặng làm hạn chế sự sinh trưởng của cây cối) mà còn do độ lồi lõm của địa mạo được giảm đi một cách đáng kể (những nơi trũng được lấp đầy bởi đất thải, những nơi lồi được bạt thấp trong quá trình khai thác), do mục tiêu sử dụng đất sẽ đa dạng hơn (cho nhu cầu phát triển của nhiều ngành kinh tế), do gia tăng cơ học dân số dẫn đến tăng nhu cầu đất thổ cư, do quá trình đô thị hoá khu vực,… Theo cách nói của các “nhà hoạt động môi trường” thì trong trường hợp này chỉ số phục hồi môi trường l pcó giá trị “dương”

(tức là l p= Gm-Gp

                   Gc

trong đó, Gm- giá trị đất đai sau khi phục hồi, dự báo theo giá cả thị trường tại thời điểm tính toán; Gp- tổng chi phí phục hồi đất để đạt được mục đích sử dụng trên; Gc- giá trị nguyên thuỷ của đất đai trước khi mở mỏ ở thời điểm tính toán, theo định giá của Nhà nước).

Tóm lại, trong những năm gần đây, vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản đã trở thành một trong những bức xúc của xã hội, được các cấp chính quyền và cơ quan chức năng từ trung ương đến địa phương coi trọng và quan tâm thích đáng thông qua việc thanh kiểm tra, thưởng phạt, đình chỉ hoạt động,… trên cơ sở bộ khung pháp lý là Luật Bảo vệ Môi trường và các văn bản pháp quy dưới luật khác. Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác chế biến khoáng sản cũng ý thức được trách nhiệm của mình trước bức xúc này và đã áp dụng những giải pháp công nghệ-kỹ thuật nhằm hạn chế và giảm thiểu các tác động tiêu cực của dự án tới môi trường như đã cam kết trong bản báo cáo ĐTM được phê duyệt. Bởi thế, sự ô nhiễm môi trường trong khai thác khoáng sản không còn là vấn đề xa lạ, không thể kiểm soát được nếu như nhà doanh nghiệp có sự quan tâm và đầu tư thích đáng cho nó.

Với tiềm năng to lớn về tài nguyên, điều kiện thuận lợi đang có về kinh tế kỹ thuật và sự quan tâm giúp đỡ của Nhà nước, Tây Nguyên sẽ trở thành một vùng công nghiệp liên hoàn với các tổ hợp bauxit-alumin-nhôm hiện đại, hoạt động với công nghệ thân thiện với môi trường, với mục tiêu là “phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, giữ gìn các di sản văn hoá, du lịch” như Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị.

Ở cấp độ quốc gia, khai thác chế biến bauxit đang được coi là một trong 10 ngành công nghiệp ưu tiên ở nước ta từ nay đến 2015. Dự án khai thác chế biến bauxit khi đi vào hoạt động sẽ tạo công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động; tiếp thêm ánh sáng văn hoá vào vùng sâu, vùng xa; tạo tiền đề để hình thành các cụm dân cư công nghiệp, có các dịch vụ hiện đại kèm theo, có đời sống văn hoá, tình thần cao; góp phần nâng cao dân trí, ổn định chính trị -xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng khu vực biên giới.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.