Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 10/10/2007 00:25 (GMT+7)

Đời sống của nhân vật truyền kỳ ngoài tác phẩm và trong lòng tín ngưỡng dân gian Việt Nam

Người ta cho rằng sở dĩ có hiện tượng này là do những tín ngưỡng dân gian cổ ít được ghi vào sử sách, đặc biệt là chúng ít được phản ánh qua các tác phẩm văn học và nghệ thuật nên không có cơ may được duy trì, bảo tồn và phát triển. May mắn cho Việt Nam, và cũng có thể là do những ngẫu nhiên tình cờ của lịch sử, một số tác gia truyền kì Việt Nam đã, vô tình hay hữu ý, phản ánh tín ngưỡng dân gian qua các trang sách của mình, và có thể nhờ những tác phẩm văn học này mà một tín ngưỡng, một tục thờ nào đó được bảo tồn và duy trì tới tận ngày nay như một nét độc đáo của văn hoá dân gian cổ truyền người Việt. Khảo sát một số nơi thờ tự hiện còn liên quan đến một số nhân vật trong Truyền kì mạn lụccủa Nguyễn Dữ và Truyền kì tân phảcủa Đoàn Thị Điểm, chúng tôi thấy một quy luật tồn tại và phát triển tương hỗ giữa văn học và tín ngưỡng dân gian. Hơn bao giờ hết, đời sống của các nhân vật truyền kì trong lòng tín ngưỡng dân gian Việt Nam thể hiện một cách đa dạng, phong phú và vô cùng sinh động.

Dường như những câu chuyện thực hư hư thực trong kho tàng truyền miệng dân gian như một cám dỗ đối với các nhà Nho thế kỉ XV - XIX, những người không thực sự tin vào những điều siêu nhiên kì ảo, cũng không thực sự kì vọng vào lí thuyết thực tế của Nho gia, một lí thuyết đang ngày càng nảy sinh những hạn chế không khắc phục nổi trong đời sống xã hội Việt Nam trong cơn chuyển mình vượt cạn. Giống như Khổng Tử vẫn né tránh những vấn đề về quỷ thần và tuyệt đối thực hiện nguyên tắc "kính nhi viễn chi", thì các học trò của ông cũng chỉ còn biết đứng giữa hai bờ thực hư mà chiêm nghiệm và miêu tả, rồi mặc cho hậu thế tự quyền phán xét minh định. Ngay cả Lê Thánh Tông, một vị vua dưới thời cực thịnh của Nho giáo cũng không thể giấu nổi niềm hoài nghi của mình đối với thế giới thần linh: "... trong bốn bể, biết bao núi thẳm đầm to, thì những chuyện thần kì kể sao hết được?" (1).

Sự tồn tại của một số tác phẩm truyền kì mà nội dung của chúng rất gần gũi với những thần tích thần phả của một ngôi đền, một hệ thống thờ tự, thậm chí một tín ngưỡng, như tín ngưỡng thờ Mẫu chẳng hạn, rất có thể không được biết đến bởi các tín đồ của nó trước khi tác phẩm ra đời. Chỉ sau khi tác phẩm ra đời, được truyền bá rộng rãi, các ngôi đền có thể có từ trước mới được tôn tạo, mới được người dân chú ý tìm hiểu. Thậm chí người ta không ngần ngại xây cất một ngôi đền mới dựa theo câu chuyện với nhiều mục đích khác nhau. Việc Đoàn Thị Điểm sưu tầm những mẩu chuyện trong dân gian để viết nên tác phẩm của mình là điều gần như chắc chắn, vì tín ngưỡng thờ mẫu là một tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ rất sớm trong cộng đồng người Việt. Điều này liên quan đến cung cách "truyền tai nhau", một tình trạng chiếm ưu thế rất lớn trong văn học dân gian truyền miệng theo phương châm "trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã tường". Câu nói này thường được dùng với ý nghĩa không mấy tích cực để phản ánh hiện tượng ngồi lê mách lẻo, phao đồn tin tức "con kiến thành con voi" với tốc độ cực nhanh ở một số làng quê, nơi mà đời sống của người dân gần như không còn là của riêng mình nữa mà được quan tâm bởi cả tập thể làng xã rất giàu tình cảm gắn bó, nhưng cũng rất đỗi tò mò. Tuy nhiên, đó chính là đất sống và tồn tại của nhiều tác phẩm folklore. Chỉ một câu chuyện nhỏ, người này kể cho người kia, và trong khi kể, nhiều người không quên thêm bớt một số tình tiết cho câu chuyện thêm hấp dẫn và thuyết phục. Và cuối cùng, "kiến" đã thành "voi" thực sự với đầy đủ tai, mắt, vòi, ngà... Câu chuyện có thể được truyền sang cả các làng lân cận và cứ thế loang xa mãi... Vì thế, tác giả không nhất thiết là người trong vùng mới biết chuyện, hoặc không hẳn đi đến tận nơi để khảo sát sự việc, vì một mặt không biết câu chuyện đã bắt đầu từ đâu, mặt khác vào thời kì trung đại, việc đi lại không dễ dàng như chúng ta ngày nay, nên nếu tác giả có may mắn tìm hiểu được câu chuyện rất có thể là do một chuyến kinh lí ngẫu nhiên tình cờ nào đó. Vì vậy, khó có thể tin là Đoàn Thị Điểm đã lặn lội tới tận Nam Định, Lạng Sơn, Thanh Hóa,... Nguyễn Dữ đã đến tận đất Hà Tây, Hà Nam để "điền dã", khảo sát những câu chuyện trong dân gian và viết lại chúng theo cung cách của riêng mình. Giả thuyết có thể tin được là những câu chuyện đó phần nhiều được lưu truyền trong dân gian và đã vượt qua ranh giới của các thôn làng tới những miền xa xôi. Tuy nhiên, so với nhân vật truyền kì đã được cố định qua hàng thế kỉ trên những áng "thiên cổ kì bút", thì đời sống của chính những nhân vật ấy ngoài tác phẩm hay nói cách khác là trong lòng tín ngưỡng dân gian Việt Nam lại sinh động, phong phú hơn nhiều, và không ngừng được bồi đắp, phát triển, bảo tồn qua các thế hệ. Khảo sát một số di tích hiện còn liên quan đến một vài nhân vật truyện truyền kì Việt Nam tiêu biểu của Nguyễn Dữ và Đoàn Thị Điểm, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng của nhân vật truyền kì như thế nào đối với đời sống tâm linh của một bộ phận không nhỏ trong cộng đồng Việt Nam hiện đại.

Trong số các nhân vật truyền kì, có lẽ Thánh Mẫu Liễu Hạnh là người đã có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất và trở thành tín ngưỡng thờ Mẫu thu hút rất nhiều tín đồ ở Việt Nam . Những nơi có dấu chân bà đi qua đều có điều gì giữ lại: một huyền tích đẹp, một ngôi đền thiêng... Về những nơi thờ tự được ghi lại qua tác phẩm Thần nữ ở Vân Cátcủa Đoàn Thị Điểm, đặc biệt là quần thể di tích và lễ hội Phủ Dầy ở Nam Định đã được nghiên cứu rất đầy đủ (2)nên chúng tôi sẽ không nhắc đến ở đây nữa. Chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu đời sống của nhân vật truyền kì qua khảo sát thực địa ở đền Sòng (Thanh Hoá) và phủ Tây Hồ (Hà Nội).

Theo tác phẩm của Đoàn Thị Điểm, Mẫu giáng trần lần cuối cùng là ở Phố Cát chứ không phải ở đền Sòng ngày nay. Có ý kiến cho rằng việc di chuyển từ Phố Cát (Thạch Thành) sang đền Sòng (Bỉm Sơn) là do sự thay đổi của tuyến đường giao thông Bắc - Nam (3). Tuy nhiên, truyền thuyết lại có cách lí giải riêng của mình qua truyện kể: "Một ông lão người làng Cổ Đạm được nữ chúa báo mộng phải dựng ngôi đền Thánh Mẫu. Ông lão lấy một chiếc gậy tre cắm trên mảnh đất đã chọn và khấn: "Nếu Thánh Mẫu bằng lòng chọn nơi đây thì xin cho thành cây tre tươi tốt". Quả nhiên ít lâu sau cây tre nẩy lá sinh cành, dân làng bèn xây đền trên mảnh đất ấy. Lúc đầu ngôi đền còn đơn sơ bé nhỏ, sau dần dần mở rộng thêm, và qua nhiều lần trùng tu, ngày càng trở nên khang trang đẹp đẽ. Chiếc gậy tre của ông lão cắm nơi ấy, gần chỗ gian thờ chính điện, sau thành bờ tre xanh tốt, không ai dám chặt, đẵn bao giờ" (4). Lễ hội rước Thánh Mẫu ở đền Sòng thường diễn ra vào ngày 26 tháng 2. Theo tài liệu của Đặng Anh, việc cúng lễ thường do phụ nữ đảm nhiệm. Trước kia các bà đồng thường sống độc thân từ hồi còn trẻ, tự nguyện làm "nghề đồng bóng", coi giữ ngôi đền Thánh Mẫu và hầu Mẫu, chầu Thánh với các hình thức "lên đồng", "hầu bóng", đàn ông thường hát chầu văn để các bà mẫu chầu Thánh. Đến ngày lễ hội, dân làng Cổ Đạm và dân chúng thập phương tụ họp về đây dự lễ. Già làng Cổ Đạm thắp hương bái yết Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Sau đó lễ rước được cử hành. Tượng Thánh Mẫu được một tốp 16 cô gái làng Cổ Đạm, rước qua các cung ra ngoài, dạo một vòng quanh đền rồi mới đi ra đường lớn. Đi trước đám rước là chiêng, trống, rồi đến bàn thờ đặt những đồ tế khí. Chỉ có những bà đồng mới được khiêng các đồ này. Trên bàn thờ bày biện các đồ cúng tế, những đồ bằng giấy màu vàng óng ánh và tô sắc màu tượng trưng cho quần áo, hoa, khăn của Đức Thánh Mẫu. Tiếp đến là 16 cô gái xinh đẹp trẻ trung mặc quần áo sặc sỡ, chít khăn giống nhau đi giật lùi trước kiệu của Đức Thánh Mẫu. 16 cô gái khác đi sau kiệu cầm tán, lọng, lư hương và tung hoa... Buổi chiều rước kiệu về đền Sòng, các cô gái nhảy múa trước bàn thờ Thánh Mẫu. Các trò chơi dân gian như múa rồng, đánh cờ, đánh vật, chơi đu, múa lân... cũng được tổ chức lôi kéo nhiều người tham gia.

Tới đền Sòng vào một ngày trời mưa gió (22 tháng 2 âm lịch), chúng tôi không khỏi ngạc nhiên trước không khí náo nhiệt bên trong. Thì ra là đúng vào mùa lễ hội (từ ngày 10 đến 26 tháng 2 âm lịch hằng năm). Tất cả các cung thờ đều đông nghẹt người, khói hương nghi ngút. ở trước sân đền, một đám người ở giữa đang thực hiện nghi thức hầu bóng, nhảy múa theo tiếng nhạc vang lừng. Một người tàn tật trẻ tuổi đội trên đầu một mâm cỗ cúng, còn người hầu đồng (là một người đàn ông) đang làm các động tác phù phép trên đầu người bệnh. Đây là một hình thức cầu xin cho khỏi bệnh. Họ từ xa đến, nghe biết "đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh" bèn đến cầu xin, mong Thánh Mẫu phù hộ độ trì cho được tai qua bệnh khỏi.

Chúng tôi mở các dụng cụ để làm việc thì một người phụ nữ lớn tuổi, vẻ hốt hoảng chạy tới bên cạnh nói rằng nếu muốn làm việc thì phải xin phép Mẫu trước đã, nếu không sẽ bị Mẫu quở phạt. Để cho bà yên tâm, chúng tôi thắp một nén hương, đặt một chút lễ lên bàn thờ để xin phép Mẫu rồi tiếp tục công việc của mình. Người ta còn dặn chúng tôi những thước phim này, những bức ảnh chụp phải được cất giữ cẩn thận ở những nơi sạch sẽ, tôn nghiêm chứ không được để lung tung... Những chi tiết như vậy tuy nhỏ, nhưng thể hiện một niềm tin sâu sắc, một sự thành kính và nể sợ thực sự của những tín đồ trung thành với đạo Mẫu vẫn còn tồn tại một cách vững chắc trong tâm hồn của một số người Việt hôm nay.

Giã biệt đền Sòng và lần theo dấu vết của Thiên Tiên Thánh Chúa về thủ đô thăm phủ Tây Hồ, một danh thắng của thủ đô Hà Nội, nơi ghi lại dấu chân Tiên Chúa hội ngộ với người phàm là Phùng Khắc Khoan, Tú tài họ Ngô và Cử nhân họ Lý. Phủ Tây Hồ đón hằng ngày rất nhiều du khách đến thăm viếng. Mỗi ngày rằm hàng tháng, người dân địa phương lũ lượt đến thắp hương khấn vái để mong sao tài lộc đến nhà, gia đạo bình yên, lương duyên hạnh phúc. Hòa vào dòng người đông đảo đó, chúng tôi tranh thủ phỏng vấn một số người xem có biết sự tích về nơi thờ Mẫu này thì đều được trả lời là không biết, chỉ biết rằng phủ này đã có từ lâu lắm rất linh thiêng, lúc nào bốn mùa cũng khói hương nghi ngút. Nếu bạn thành tâm, sẽ đạt được điều mình mong muốn. Vậy là người ta tin và đến đây với những niềm mong mỏi rất trần thế, ít ai biết rằng ngôi phủ này gắn với một sự tích rất hẫp dẫn, là nơi tương truyền Mẫu Liễu Hạnh đã hiện ra đàm đạo thơ văn với Trạng Bùng (Phùng Khắc Khoan).

Trong khuôn viên của phủ Tây Hồ có một cây đa cổ thụ đặt đền thờ Trâu Vàng (hay cũng còn được gọi là đền Kim Ngưu). Đền Trâu Vàng từng được dựng trên khu đất nhô ra giữa Hồ Tây nhưng bị đổ trong kháng chiến chống Pháp. Dân bèn lập đền thờ bên cạnh cây đa trong phủ Tây Hồ để thờ vị thần Kim Ngưu. Sự tích đền Kim Ngưu gắn với Hồ Tây và sự hưng thịnh của Phật giáo khi nước ta vừa thoát khỏi thời kì Bắc thuộc. Truyền thuyết kể rằng thời Lý có nhà sư Nguyễn Minh Không giỏi nghề y, được vua phương Bắc mời sang chữa bệnh cho thái tử. Khi thái tử khỏi bệnh vua ban cho túi thần đồng rồi ông tìm cách đưa đồng đen về. Về nước ông cho đúc một quả chuông lớn mà tiếng vang sang tận phương Bắc. Con trâu vàng bị giam giữ bên đó tưởng rằng tiếng mẹ gọi bèn chạy lồng về Việt Nam . Đường nó chạy lún thành sông Kim Ngưu. Đến rừng lim phía Tây kinh thành thì tiếng chuông tắt. Trâu vàng lồng lộn xéo nát cả một vùng khiến vùng đất nơi đây sụt xuống thành hồ, đó là hồ Trâu Vàng. Hồ này thời Lý được gọi là hồ Dâm Đàm vì có nhiều sương mù. Sau đến thời Lê Anh Tông, vì kiêng chữ Đàm mà đổi thành Hồ Tây. Theo tài liệu của Cục Di sản, Bộ Văn hoá, phủ Tây Hồ có mười đạo sắc phong thần do các triều vua ban, trong đó có ba đạo sắc phong cho Liễu Hạnh công chúa, Quỳnh Hoa và Quế Hoa, bảy đạo sắc phong cho vị thần Trâu Vàng (Kim Ngưu) (5).

Những đêm 30, ngày mồng 1, đêm 14, ngày 15 âm lịch hằng tháng, bạn không dễ gì chen chân vào phủ Tây Hồ dù chỉ để thắp một nén nhang, vì dân địa phương và nhiều nơi ở miền Bắc đến lễ bái rất đông. Họ chẳng cần biết đến giai thoại Tiên Chúa đã từng gặp họ Phùng hay vị thần Kim Ngưu nào đó, chỉ cảm thấy rằng sau khi rời khỏi phủ, tâm trạng thoải mái hơn, làm ăn hầu như cũng phát đạt hơn, để rồi mỗi tháng cứ hai ngày đều đặn đến tạ ơn, cầu nguyện với những mong mỏi rất trần thế. Nhưng chính điều đó đã tạo nên một nét văn hoá tín ngưỡng rất đẹp của thủ đô Hà Nội. Một nét đẹp lắng sâu trong đáy tâm linh của mọi người, lắng sâu dưới cái vỏ ồn ào huyên náo của thành đô muôn màu muôn vẻ. Sau những giờ phút căng thẳng vì công cuộc sinh tồn ngoài xã hội, một giờ tĩnh trí ở đây có thể giúp chúng ta quên đi, dù chỉ là trong giây lát, những muộn phiền, và mơ ước một ngày mai tươi đẹp hơn. Được như vậy tưởng cũng đã nhiều lắm!

Thực tế cho thấy người Việt Nam chúng ta có một cách ứng xử khá thực dụng trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng. Phần lớn người ta thực hiện tín ngưỡng với một mục đích rất cụ thể và mong muốn đạt được một kết quả nhanh chóng, như cầu mong sự bình an trong gia đình, sự phồn vinh thịnh vượng cho cộng đồng làng xã, xin cho gặp thầy gặp thuốc để chữa khỏi một bệnh tật nào đó hoặc cầu xin sinh được quý tử... Nhiều khi họ cầu cúng trước một kì thi quan trọng để xin cho được đỗ đạt hoặc cầu mong cho linh hồn những người chết được siêu thoát, an nghỉ chốn vĩnh hằng... Để có nhiều cơ may đạt được những điều mình cầu xin, người ta không ngần ngại cầu cúng tất cả các thần thánh không kể vị thánh đó thuộc tín ngưỡng nào. Điều này gắn với một câu châm ngôn cửa miệng của người Việt: "Có bệnh thì vái tứ phương"! Chính với thái độ thực dụng này sẽ giải thích cho hiện tượng hỗn dung tôn giáo ở Việt Nam . Một ngôi đền thờ Mẫu thường có một ngôi chùa thờ Phật bên cạnh. Một ngôi chùa Đạo giáo cũng có đền thờ Quan Âm khá trang trọng kế bên... Và cũng chính nhờ điều này, các nhân vật truyền kì của chúng ta đã có đất sống. Có thể từ một nhân vật bình thường được dân chúng thần thánh hóa, thêu dệt nên một huyền tích, trở thành tín ngưỡng của cả một vùng!

Với Truyện người con gái Nam Xươngcủa Nguyễn Dữ, nhân vật Vũ Thị Thiết được thờ ở một ngôi đền tọa lạc bên ghềnh Hoàng Giang và qua bao thế kỉ vẫn nghi ngút khói hương, được nhân dân tôn kính, cúng thờ. Vũ Thị Thiết trở thành một biểu tượng của lòng thủy chung và đức hạnh. Thử làm một phép so sánh nhỏ giữa tác phẩm của Nguyễn Dữ và bản ngọc phả hiện còn của ngôi đền (6), chúng tôi thấy bản ngọc phả có xu hướng lịch sử hóa nhân vật dân gian, gắn nhân vật vào một tiểu sử, hành trạng có thật. Chẳng hạn phần mở đầu Truyện người con gái Nam Xươngcủa Nguyễn Dữ chỉ là cách mở đầu quen thuộc chưa thoát khỏi khuôn mẫu của truyện dân gian: cách giới thiệu tiểu sử nhân vật một cách chung chung và tương tự đối với việc định danh nhân vật, nhưng chú trọng hơn vào phần diễn biến cốt truyện và bi kịch Vũ Nương. Tuy nhiên, bản ngọc phả (niên hiệu Duy Tân thứ 8, ngày 8 tháng 5 năm 1914) thì câu chuyện diễn ra có năm tháng rõ ràng (thời Lê Thánh Tông, 1460 - 1497), các nhân vật như thân sinh của Vũ Thị Thiết, Trương Sinh (Trương Huyền) đều có tên tuổi, thân thế, hành trạng rõ ràng. Mục đích của tác phẩm là muốn hiện thực hóa nhân vật bằng cách gắn một tiểu sử "có thể tin được nhất" để thuyết phục người đọc rằng đây là một câu chuyện có thật. Tuy nhiên, ngay sau đó tác giả lại thể hiện một mâu thuẫn là vừa muốn hiện thực hóa nhân vật, đồng thời muốn thần thánh hoá và dân gian hóa câu chuyện bằng cách thêm vào motif thụ thai thần kì cho nhân vật: Một hôm bà Phiên ra rửa chân ở bến sông Bến Thị, thấy một con rùa vàng nổi trên mặt nước, bà bèn bắt về bỏ ở gầm giường nằm, một lát bỗng không thấy nữa. Bà cho là thần sông tác quái, không rõ họa phúc ra sao bèn cùng chồng lập đàn lễ giải quái ở bến sông. Đêm ngủ bà mơ thấy mình rơi xuống nước, tới cung điện của Long Quân, rồi vào bái yết chính cung hoàng hậu. Hậu nói: nhà ngươi tích đức, lặng lẽ làm phúc đã nhiều, nay ta cho Quý Nương công chúa có tên là Thúy Hoàn để làm con vợ chồng ngươi. Bà nghe rồi vái tạ ra về... Ước trăm ngày sau thì bà có thai. Đến năm Nhâm Tuất tháng 3 ngày 20 thì bà sinh được một cô con gái, xuân sắc xinh tươi... Motif thụ thai thần kì này mục đích có thể là để chuẩn bị một chỗ cho Vũ Nương sau bi kịch Hoàng Giang? Tuy nhiên, bản ngọc phả lại không có chi tiết nhân vật Phan đã tình cờ cứu một con rùa, bị đắm thuyền trên sông Hoàng rồi được đưa về động rùa, gặp Vũ Nương và được nhờ đem tín vật cho Trương Sinh, cũng như nhắn chàng lập đàn giải oan để thanh minh với nhân thế về lòng chung thuỷ và đức hạnh của nàng. Ngược lại, cũng như rất nhiều bản ngọc phả, thần tích, chi tiết hiển linh sau khi chết luôn được nhấn mạnh và bản ngọc phả đền bà Vũ cũng không phải là ngoại lệ. Ngọc phả cho hay Vũ Nương sau khi hóa đi rồi được Đế Đình phong là Thủy Cung công chúa, rồi đi khắp biển Đông nổi tiếng linh thiêng rõ rệt, nhưng ở Hoàng Giang thì thiêng hơn cả. Vì thế tục ngữ mới có câu rằng: "Mười hai cửa bể phải nể Hoàng Giang" là vậy. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua đây gặp sóng vật dữ dội, thuyền rồng tưởng chừng muốn lật, nàng bèn hóa ra rồng vàng nâng đỡ thuyền vua, rồi báo mộng xin theo nhà vua đánh giặc. Chiến thắng trở về nhà vua bèn xuống chiếu sai sửa sang đền miếu hương khói phụng thờ. Nhân một dịp đi qua Vũ Điện, ông đã viết bài thơ Miếu vợ chàng Trươngvẫn còn lưu truyền tới tận ngày nay! Thế mới hay ông vua lỗi lạc Lê Thánh Tông của chúng ta "cực kì có duyên" với các thần nữ qua mấy phen giong cờ nổi trống chinh phục Chiêm Thành! Hãy nhớ lại truyện Đền thiêng cửa bểcủa Hồng Hà nữ sĩ. Lê Thánh Tông đã được Duệ Phi báo mộng ở bờ biển Kỳ Hoa, giúp trừ diệt yêu quái và tiếp sức cho thắng lợi của ba quân, nơi mà Trần Duệ Tông từng rơi vào thảm kịch cách đó hơn một thế kỉ (1376) (7).                                      

Trở lại với việc so sánh, có thể thấy tác phẩm ban đầu của Nguyễn Dữ chú trọng về bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa hơn là những chi tiết về tiểu sử và tuyệt nhiên không có sự việc hiển linh giúp đỡ nhà vua sau khi chết, trừ cuộc trở lại chốc lát để tạ từ Trương Sinh. Hình như trong mắt Nguyễn Dữ, người phụ nữ dẫu ngoan hiền, đức hạnh vẫn chưa đủ làm nên hạnh phúc mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác như chồng con, gia đình, xã hội... Tuy nhiên, ngọc phả lại cho chúng ta cái cảm giác như Vũ Thị Thiết, nàng công chúa Thúy Hoàn ở cõi trên, đã được "gửi" xuống trần gian để thực hiện từng ấy sứ mệnh, rồi ra đi, và cái cung cách ra đi của bà cũng nằm ngoài ấn định của trật tự thế giới bên kia, để nêu gương cho hậu thế và để lại dấu vết cho muôn đời sau giống như một "ơn huệ" đặc biệt của Vũ Điện vì đã được thánh thần lựa chọn để ghi dấu chân của họ chốn phàm trần. Nhìn từ góc độ dân gian, "tội" của Trương Sinh có phần hơi nhẹ!

Đến thực tế ở Vũ Điện, chúng tôi thấy rằng những nghi lễ hầu bóng rất giống với nghi lễ trong các đền thờ Mẫu, chỉ khác về nội dung những bài hát chầu văn. Đền thờ có cung phối thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Đặc biệt có một cung cấm đặt tượng Vũ Thị Thiết mà người coi đền nhất định không cho phép chúng tôi quay phim chụp ảnh. Lễ hội dân gian vẫn được tổ chức hằng năm rất tưng bừng ở Vũ Điện nhằm tưởng nhớ vị thần nữ này. Có nghi lễ rước nước trên sông Hoàng để tưởng nhớ việc Mẫu trở về gặp Trương Sinh. Hỏi chuyện một số người dân ở đây, chúng tôi thấy rằng họ tin Vũ Thị Thiết là một nhân vật có thật của làng Vũ Điện mà không hề biết đến câu chuyện của Nguyễn Dữ, cũng không quan tâm đến sự tồn tại của một bản ngọc phả nào đó. Họ rất mù mờ về lai lịch của vị thần này nhưng lại vô cùng rành rẽ về sự tích bị chồng ngờ oan nên Vũ Thị Thiết đã tự tử ở sông Hoàng để chứng minh cho lòng tiết hạnh. Họ tin và thờ nàng, một niềm tin yêu thành kính. Mỗi khi nhà có chuyện gì quan trọng, người ta thường sắm chút lễ vật, tuỳ theo gia cảnh từng nhà, mang tới đền thờ của Bà để kêu xin! Thế mới hay, giữa ngổn ngang của truyền thống và hiện đại, của khoa học chính xác và những ảo mộng mơ hồ, sự tồn tại niềm tin ở một số người trong các làng quê Việt Nam đôi khi thật giản đơn và mộc mạc!

Ngoài ra, chúng tôi đã và sẽ khảo sát những đền thờ liên quan đến các nhân vật truyền kì như nhân vật Tú Uyên và Giáng Kiều được thờ ở đền Bích Câu, Hà Nội gắn với truyện Bích Câu kì ngộ, đền thờ bà Phan Thị Viên ở xã An ấp, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh gắn với truyện Người liệt nữ ở An ấp, đền thờ Văn Nhĩ Thành ở xã Tân Lập, huyện Đan Phượng, Hà Tây liên quan đến Chuyện tướng Dạ Xoa, động Bích Đào thờ Từ Thức và Giáng Hương ở Nga Sơn, Thanh Hóa gắn với hành trình Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên,Tiết phụ đền ở xã Phán Lục, huyện Kim Động, Hưng Yên liên quan đến Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu... Các nhân vật này đều được thờ cúng trang trọng, mỗi nhân vật có một nét riêng, gắn với một đời sống văn hoá riêng, được thờ cúng theo cung cách khác nhau, phạm vi và biên độ ảnh hưởng cũng khác nhau. Tuy nhiên, bài viết nhỏ này không thể trình bày hết được những ghi nhận của mình qua các đợt khảo sát. Xin hẹn một chuyên khảo khác có dung lượng dày dặn hơn với hi vọng những khảo sát và lí giải chi tiết hơn.

Nhân đây, lật lại những trang sách Tiễn đăng tân thoạicủa Cù Hựu, người được xem là mẫu mực cho kiểu truyện truyền kì Việt Nam mà có người cho rằng họ Nguyễn tài ba của chúng ta đã không thể "vượt qua ngoài phên dậu của Tông Cát" khi viết Truyền kì mạn lục,chúng tôi thấy không có một truyện nào của Cù Hựu gắn với một tín ngưỡng, một tục thờ nào đó tồn tại trong thực tế của Trung Quốc từ xưa đến nay. Truyện của Cù Hựu dường như chỉ là những tác phẩm văn học thuần túy. Sự khác biệt này so với truyện truyền kì Việt Nam là rất đáng lí giải. Truyện truyền kì của Nguyễn Dữ, và người kế tục xuất sắc sau ông là Đoàn Thị Điểm, những tác phẩm của họ thể hiện một sự kết hợp thiên tài giữa văn học bác học và truyền thống dân gian. Một vài ví dụ nêu trên cho thấy phần nào sức sống mãnh liệt của nhân vật truyền kì trong đời sống tín ngưỡng Việt Nam trường tồn qua bao thế hệ. Có thể nói, nhiều tác phẩm truyền kì Việt Nam vừa là bằng chứng vừa là điểm tựa cho tín ngưỡng dân gian tồn tại và phát triển. Tìm hiểu đời sống của nhân vật truyền kì qua thực tế tín ngưỡng dân gian Việt Nam không phải để tự tôn dân tộc một cách mù quáng, cũng không phải để tự ti mặc cảm. Nhiều người đã thể hiện tâm lí tự ti mặc cảm khi nhìn nhận văn học trung đại Việt Nam đối diện với nền văn học Trung Quốc vốn có một bề dày đáng nể. Chúng tôi tin rằng người Pháp tự hào về Marquerite De Navarre với tác phẩm Truyện bảy ngày(Heptaméron) của bà không kém gì người ý tự hào về Bocace, tác giả bộ Truyện mười ngày(Décaméron) nổi tiếng thế giới, dẫu rằng Marquerite De Navarre không nghi ngờ gì nữa, đã bắt chước Bocace gần như hoàn toàn về mặt bố cục và phương pháp thể hiện. Tuy nhiên, Marquerite De Navarre đã phản ánh một cách tinh thế và chân thực đời sống Pháp qua những năm tháng sống và quan sát riêng của mình, còn tác phẩm của Bocace chuyên chở cả một kho truyền thống văn hoá ý vĩ đại. Điều này đã làm nên sự khác biệt và danh dự riêng cho mỗi tác gia và tác phẩm của họ. Đó là chưa kể đến tính đồng loại hình của các nền văn học trên thế giới. Nghĩa là, có những tác phẩm văn học giống nhau về nội dung hay hình thức thể hiện mà không có một chứng cớ xác thực nào cho thấy tác giả và tác phẩm của nền văn học này đã tiếp thu hay có ảnh hưởng từ tác giả hay tác phẩm của nền văn học kia. Chúng tôi dẫn một khảo sát của Nguyễn Đăng Na để chứng minh cho điều này. "Truyện Hương Ngọccủa Bồ Tùng Linh (1640 - 1715) giống truyện Cuộc kì ngộ ở trại Tâycủa Nguyễn Dữ (nửa đầu thế kỉ XVI), truyện Chuột đồng và chuột nhàcủa L. Tônxtôi (1828 - 1910) giống truyện Bức thư của một con muỗicủa Lê Thánh Tông (1442 - 1497), truyện Thác đao điềncủa Na Uy thế kỉ XVIII với truyện Lê Phụng Hiểucủa Việt Nam thế kỉ XIV..." (8). Nếu truyện Hương Ngọccủa Bồ Tùng Linh có nét giống với truyện Cuộc kì ngộ ở trại Tâylà điều có thể hiểu được bởi vì những type truyện dân gian của Việt Nam và Trung Quốc khá gần gũi nhau. Tuy nhiên, chưa có một chứng cứ khoa học xác thực nào cho thấy L. Tônxtôi hay những người Na Uy có khả năng đọc chữ Hán để từ đó mà đọc được truyện truyền kì Việt Nam rồi chịu ảnh hưởng trong sáng tác của mình. Thậm chí, những suy diễn kiểu như vậy sẽ chỉ cho chúng ta thấy một sự khôi hài nực cười và vô nghĩa. Trên thực tế, cuộc sống của con người trên trái đất cơ bản là như nhau, mọi nhận thức của chúng ta đều xuất phát từ cùng một hiện thực. Vì vậy, không vì lí do gì mà một hiện tượng trong một cộng đồng này lại không thể tồn tại ở cộng đồng kia và ngược lại. Trong văn học và văn hoá cũng vậy, những type truyện tồn tại trong nền văn hoá thế giới là như nhau, nhưng sự phát triển của các cộng đồng sử dụng những type truyện đó không bao giờ trùng khớp. Do đó, không nên xem đó là sự bắt chước một cách đơn giản và máy móc, mà là những thiên hướng phát triển vô cùng đa dạng của các khía cạnh khác nhau trong mỗi cộng đồng. Vì vậy, không nên chỉ nhìn thấy những nét giống nhau bề mặt của một hiện tượng của cộng đồng này với một hiện tượng của cộng đồng kia rồi kết luận một cách vội vã về sự bắt chước, ảnh hưởng hay nghi ngờ tài năng của tác giả cũng như giá trị của tác phẩm. Bởi vì mỗi hiện tượng tương đồng hay khác biệt đều chứa đựng trong mình nó cả một chiều sâu lịch sử và văn hoá riêng mà, ngay cả khi chúng ta đủ độ lùi lịch sử cần thiết, vẫn khó có thể minh định một cách chính xác rạch ròi. Chính điều này đã làm nên tính tương đối của những nhận định khoa học, đặc biệt là khoa học văn học.

Trên thực tế, văn học Việt Nam thời trung đại đã tìm đến một chỗ dựa tinh thần đặc biệt, đó là một môi trường riêng với những yếu tố phi thường kì ảo nhằm phản ánh một thực tế mà ngôn ngữ thuộc về lí tính thông thường bất lực trong công cuộc thể hiện và lí giải. Đối với truyện truyền kì Việt Nam , chỗ dựa tinh thần đó chính là những cốt truyện dân gian, kho tàng tín ngưỡng dân gian bản địa được lưu truyền từ vạn cổ. Nhờ đó, chân dung một số nhân vật truyền kì được khắc họa vào văn học, rồi bước ra khỏi tác phẩm, tồn tại độc lập, hiên ngang trong đời sống và vững chắctrong niềm tin yêu của cộng đồng. Các tác gia của truyện truyền kì, dù vô tình hay hữu ý, đã góp một phần không nhỏ vào dòng kênh văn hoá dân gian cổ truyền người Việt vốn không ngừng chảy từ quá khứ đến hiện tại và đang tuôn tràn khát vọng đổ về tương lai. Và đặc biệt, họ đã góp phần làm cho nhân vật truyền kì có một vị trí quan trọng trong tín ngưỡng dân gian, trong niềm tin của người Việt, một niềm tin có vẻ ngày càng hiếm hoi, mai một trước những thách thức của nền văn minh vật chất thời kì hiện đại.

 

Tài liệu tham khảo

1. Lời tựa Thánh Tông di thảo, Nxb. Văn học, 2001, tr. 7.

2. Xem Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu Á, Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2004.                          

3. Phạm Quỳnh Phương, "Theo bước chân của Vân Cát thần nữ", in trong Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu Á, Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2004, tr. 130.

4. Đặng Anh, Đền Sòng với huyền thoại Liễu Hạnh công chúa, Nxb. Thanh Hóa, 2004, tr. 44.

5. Theo hồ sơ di tích của Cục Di sản, Bộ Văn hoá - Thông tin, 1994.

6. Tư liệu Hán Nôm đền Bà Vũ, Dương Văn Vượng phiên âm, dịch nghĩa, 1993.

7. Truyền kì tân phả, Nxb. Văn học, 2001.
8. Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1, Nguyễn Đăng Na tuyển soạn và giới thiệu, Nxb. Giáo dục, 2001, tr. 212.     

Nguồn: hoidantochoc.org.vn (21/11/06)

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.