Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 03/07/2012 21:03 (GMT+7)

Đọc báo xưa

Thời Pháp thuộc, báo chí cũng bị kiểm duyệt, cũng phải nộp lưu chiểu, cũng được lưu trữ ở các thư viện…nhưng vì nhiều lý do, công tác lưu trữ lại không được thực hiện tốt lắm. Có thể nói hiện nay ngoài một số cá nhân thích sưu tập thì hầu như không có cơ quan lưu trữ, thư viện nào ở Việt Nam giữ được trọn vẹn một bộ báo xưa nào, kể cả với những tờ chỉ có hai mươi số như Miscellaneés tức Thông loại khoá trình (1888-1889), Phan Yên báo (1898), Nữ giới chung (1918). Những tờ báo tồn tại nhiều năm như Gia Định báo (1865-1909), Nông cổ mín đàm (1901-1924), Lục tỉnh Tân văn (1907-1944), Tiếng Dân (1927-1973)…thì càng không cần phải nói, có thể có thư viện nào lưu giữ được khá nhiều nhưng đều thiếu lỗ chỗ. Tình hình tư liệu như vậy đã hạn chế rất lớn cả việc tìm hiểu lịch sử văn hoá, lịch sử xã hội Việt Nam trươc Cách Mạng tháng Tám qua báo chí nói chung lẫn việc tìm hiểu báo chí Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám nói riêng. Cho nên phần nhiều các công trình tìm hiểu báo chí Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, nhất là tìm hiểu một số tờ báo cụ thể đều khó có cơ sở vững chắc về tư liệu.

Chẳng hạn Nguyễn Thành Long trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 20, NXB Khoa học Xã hội, 1997, tr.13 đã khẳng định “ Theo quyết định của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ngày 14-2-1901, báo bằng hai thứ chữ Quốc ngữ và chữ Nho. Nhưng từ số đầu đến số cuối, báo chỉ in chữ Quốc ngữ (không kể bốn chữ trên báo ở trang 1)”. Đáng tiếc vì thật ra tác giả chưa hề đọc từ số đầu đến số cuối, nếu không đã thấy được chẳng hạn trong các số từ 208 ra ngày 14-9-1905 đến 214 ra ngày 25-10-1905 tờ báo này đã liên tục đăng tải một bố cáo bằng chữ Hán Nôm của “Trại hội Tổng cục Vị sĩ áo địa” thuê người phục vụ trong một nhà hàng của Ban Tổ Chức Hội chợ Marseille Đông Dương tại Hội chợ Marseille năm 1906 (trong văn bản nói trên, địa danh Marseille được viết bằng hai chữ Nôm Mạch sai thêm dấu nháy cá). Tương tự, trước đây một số người, kể cả kẻ viết bài này chỉ mới căn cứ vào số báo cuối cùng hiện có ra ngày 4-11-1924 để tạm cho rằng đó là ngày đình bản của tờ Nông cổ mín đàm. Nhưng nếu đọc rộng ra những tờ báo khác xuất bản khoảng tháng 11,12-1924 thì ít nhất cũng thấy được 3 bài nói về việc đình bản của tờ báo này. Thứ nhất, bài ký tên Tự Phụ: “Điếu tờ Nông cổ mín đàm” trên Đông pháp thời báo số 217 ra ngày 19-11-1924. Thứ hai, bài ký tên Lê Quang Vân: “Khóc Nông cổ mín đàm” trên Lục Tỉnh Tân Văn số 1889 ra ngày 27-11-1924. Thứ ba, bài ký tên Thanh Trước: “Khóc Nông cổ mín đàm” trên Đông Pháp thời báo, số 222 ra ngày 01-12-1924. Trong đó bài của Thanh Trước có câu “Tờ Nông cổ mín đàm chết đã hơn hai tuần nay, ký giả đến bây giờ mới cất tiếng khóc…”, đủ thấy tờ Nông cổ mín đàm đình bản nhiều lắm là 20 ngày trước 01/12/1924, tức có thể số cuối cùng ra ngày 11-11, vì rõ ràng số ra ngày 4-11 không nói gì tới việc tờ báo sẽ đình bản.

Nhưng nhìn từ một khía cạnh khác, báo chí hiện đại trước Cách mạng tháng Tám với chức năng cập nhật tin tức thời sự lại có ưu thế không thể chối cãi trong việc ghi nhân các sự kiện và quá trình có thật đang diễn ra trong sinh hoạt xã hội dù rằng nhiều khi chưa chính xác hay còn phiến diện. Nói theo ngôn ngữ sử học thì các tin tức này chính là hệ thống tư liệu “thực lục”- tư liệu cấp 1 được ghi nhận và giám định bởi chính người đương thời nhưng đáng tiếc là đến hiện nay vẫn chưa được bao nhiêu người khai thác. Chẳng hạn ai cũng biết Đạm Phương nữ sử (1881-1947) là một nhà văn nữ có nhiều đóng góp trong phong trào vận động nữ quyền ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, nhưng nếu không đọc được mẩu tin bà Đạm Phương bị bắt trên Thần Chung số 182 ra ngày 28-8-1929 thì khó mà biết bà được cơ quan mật thám Pháp “quan tâm” tới mức nào. Hay nếu so sánh loạt bài “Thương cổ luận”  của Lương Khắc Ninh trên Nông cổ mín đàm thời gian 1901-1906 với những bài viết có cùng chủ đề trên Nam Kỳ kinh tế báo (1920-1924), Canh nông luận (1929-1931), có thể thấy ở đây một bước tiến dài trong tư tưởng kinh tế của con người Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Bài “Tình hình kinh tế xứ Nam Kỳ” trên Nam kỳ kinh tế báo số ra ngày 25-11-1922 nhận định: “Tuy vậy, hiện nay có hai xứ sản gạo nhiều, cạnh tranh với Nam kỳ ta, đáng phải lưu ý lắm: Miến Điện và Xiêm La. Gạo của ta, nếu nói về hoá chất, về sự bổ dưỡng, thời chẳng kém chi gạo hai xứ đó, có khi còn hơn, nhưng nếu nói về “bề ngoài” thời thiệt là xấu hơn của người. Nếu chúng ta có thể xuất cảng gạo như của người, nhứt là lo cho đều hột như nhau, thời chúng ta sẽ thấy nhiều xứ ăn gạo chúng ta thêm nữa”, tức rất quan tâm tới hình thức hàng hoá để cạnh tranh trên thị trường nông sản quốc tế. Tương tự, bài “Vì sao Canh nông luận ra đời” trên báo Canh nông luận số 1 ngày 24-8-1929, nhấn mạnh việc áp dụng máy móc hiện đại trong sản xuất nông nghiệp: “Trong hoàn cầu này, biết bao nước cũng lấy nông nghiệp làm nghề căn bổn như nước ta, song không có nước còn dùng những khí cụ cũ kỹ như ta cả…Mấy nước gần ngay ta đây là nước Xiêm La, nước Miến Điện, đều lấy nghề nông làm gốc, mà họ đều theo phương pháp và cơ khí của đời này chế ra, cho nên hột gạo của họ ở trên thị trường thế giới, có giá trị hơn hột gạo của ta”. Cũng có thể nghĩ rằng những ý kiến nói trên là xuất phát từ nhu cầu của tư bản Pháp trong việc nâng cao hiệu suất bóc lột thuộc địa đối với kinh tế nông nghiệp Việt Nam ở Nam Kỳ, nhưng thực tế đã cho thấy đó cũng là đòi hỏi khách quan của lịch sử đối với sự phát triển của nông nghiệp Nam kỳ trong bối cảnh thị trường quốc tế không chỉ trước 1945…

Cần nói thêm rằng báo xưa nói chung và báo xưa ở Nam kỳ nói riêng thường có các mục Văn tuyển, Thi văn, Thơ xưa…sưu tập thơ văn của tiền nhân, đây là nguồn tư liệu – văn bản tham khảo quan trọng đối với những người nghiên cứu văn học Hán Nôm Việt Nam. Ví dụ hiện nay chưa thấy ai công bố văn bản chữ Nôm nào của bài Văn tế Châu Văn Tiếp, nhưng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã có nhiều người phiên âm và giới thiệu nó trên sách báo Quốc ngữ La tinh như Trương Vĩnh Ký trong Miscelanées số 9, 1889 với nhan đề “Phụng dụ tế Khâm sai Ngoại tả Chưởng dinh quận công Châu Văn Tiếp văn”, Võ Sâm trong Thi phú văn từ, Sài gòn, 1912 với nhan đề “Tế Châu Văn Tiếp”, Bùi Kỷ trong Quốc văn cụ thể, Tân quốc văn thư xã, Hà Nội, 1923 với nhan tề “Tế Châu Văn Tiếp”, đều chỉ có 18 câu. Duy bản mà Nguyễn Liên Phong công bố trong bài “Gia Định tam hùng” trên Nông cổ mín đàm số 271 ra ngày 25-12-1906 là có 21 câu, đồng thời phân chia ba phần Tán, Thán và Ai rõ ràng nhất, trong đó phần Ai có những câu không thấy trong cả ba bản kia như:

Ôi,

Trẫm hoài vọng chi nguôi, Người hiển linh cho biết.

Chẳng qua ý Đô đốc muốn mau bình nghịch tặc, chốn hiểm nghèo bao nại đụt xông, mà cũng mạng tướng quân đem gởi tại sa trường, niềm ngay thảo vẹn tròn danh tiết…

Trong 25 năm, từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới đến nay, người ta đã được nghe không ít các khẩu hiệu loại đổi mới tư duy, đột phá nhận thức…của giới sử học quan phương. Nhưng không nói tới việc tìm hiểu lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX vốn gặp nhiều khó khăn chưa thể khắc phục về tư liệu, ngay việc tìm hiểu lịch sử Việt Nam thế kỷ XX vốn có nhiều tư liệu hơn cũng chưa thấy có sự đổi mới hay đột phá nào đáng kể. Cho nên đành nhắc lại một câu đã cũ, tức nhận thức sử học là cái có thể theo thời mà thay đổi theo kiểu phủ định lẫn nhau, chứ nhận thức sử liệu thì chủ yếu là bổ sung cho nhau. Trong ý nghĩa này, những báo chí trước Cách mạng tháng Tám 1945 hiện còn giữ được chính là một kho sử liệu quý giá mà nếu được khai thác đúng hướng và đúng mức chắc chắn sẽ góp phần tạo ra một nguồn sinh khí mới bên cạnh một đường hướng mới cho nền sử học hiện đại Việt Nam.


Xem Thêm

Tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ
Hiện nay Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) có trên 500 tổ chức khoa học và công nghệ (KH &CN). Các tổ chức KH&CN trực thuộc này được thành lập và hoạt động trên cơ sở các quy định của Luật Khoa học và Công nghệ và nghị định của Chính phủ, điều lệ của Liên hiệp Hội Việt Nam.
Tìm giải pháp chuyển đổi số toàn diện tại Liên hiệp Hội Việt Nam
Hơn 40 năm thành lập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đang nỗ lực hiện đại hóa hoạt động trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, Liên hiệp Hội Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều hạn chế về hạ tầng công nghệ và nhận thức, đòi hỏi những bước đi chiến lược hơn trong tương lai.

Tin mới

VUSTA làm việc với tổ chức Korea CEO Summit
Hà Nội, ngày 3 tháng 2 năm 2025 – Tại trụ sở của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch Phạm Ngọc Linh đã có buổi làm việc với ông Park Bong Kyu, Tổng giám đốc của tổ chức Korea CEO Summit. Hai bên đã chia sẻ thông tin và trao đổi về khả năng hợp tác để tổ chức Diễn đàn Đô thị Văn hóa Công nghiệp Hội tụ 2025 (CICON 2025).
Vĩnh Phúc: Sáp nhập Hội Kiến trúc sư vào LHH tỉnh
Sáng ngày 07/02/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Phúc (LHH) tổ chức Hội nghị thông qua đề án sáp nhập Hội Kiến trúc sư vào LHH tỉnh. Phó Chủ tịch phụ trách LHH Đỗ Trung Hiếu và Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Nguyễn Đạm đồng chủ trì hội nghị.
Tạp chí Việt Nam Hội nhập mở chuyên mục tuyên truyền về ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP HƯỚNG TỚI ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIV CỦA ĐẢNG
VNHN Ngay từ những ngày đầu Xuân Ất Tỵ, đúng vào dịp kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2025), thực hiện tinh thần chỉ đạo của Trung ương và cụ thể hóa từ Nghị quyết của Cấp ủy Viện chủ quản và Tạp chí Việt Nam Hội nhập – Ban Biên tập tạp chí Việt Nam Hội nhập đã chính thức xây dựng chuyên mục Tuyên truyền về Đại hội Đảng các cấp hướng tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng.