Dây Chìu
Cây này mọc haong ở các rừng thưa, ven đồi, ven suối khắp nước ta, từ Bắc đến Nam, tới độ cao 1.000 m. Đây là một loại cây bụi trườn có cành mảnh vươn dài 3 – 5m hoặc hơn, cành non có lông ráp, cành già nhẵn, màu nâu nhạt đến nâu tía. Lá mọc so le, phiến hình trái xoan hẹp, dai, gân lá nổi rõ, mép khía răng cưa đều, 2 mặt lá rất ráp do màng ngoài lớp tế bào biểu bì có tẩm chất silic (SiO2) nên lá khô được dùng như giấy ráp (giấy nhám) để đánh nhẵn đồ gỗ. Cụm hoa là một chuỳ dài 10 – 25cm, ở kẽ lá và đầu cành mang nhiều hoa nhỏ, đường kính khoảng 8mm, 5 lá đài, 5 cánh hoa màu trắng, rụng sớm, nhiều nhị. Quả hình trứng dài khoảng 1cm, đầu có mũi nhọn chứa 1 hạt có lông, áo hạt có rìa, màu đỏ. Mùa hoa, quả: tháng 6 – 8.
Ngoài Việt Nam, Dây chìu còn được gặp ở các nước vùng nhiệt đới Nam Á và Đông Nam Á như Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, Indonesia và Philippines.
Để làm thuốc, người ta dùng rễ và thân Dây chìu. Chặt lấy phần gần gốc, những đoạt thân có nổi u (U chạc chìu). Rễ thu hái quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, dùng tươi hoặc tẩm rượu sao vàng. Cây này có chứa rhamnocitrin và tanin.
Theo Đông y, Dây chìu có vị chát, tính ấm; có tác dụng làm giảm đau, tán ứ, hoạt huyết, thu liễm, cố tinh. Dùng chữa tê thấp, đau nhức gân xương, ứ huyết, đau bụng, phù thũng, gan lách sưng to, bạch đới… Liều dùng 10 – 30g thân hoặc 8 – 16g rễ, sắc nước uống, thường phối hợp với các vị thuốc khác.
Theo kinh nghiệm dân gian ở vùng miền Bắc, người ta còn dùng dễ Dây chìu sắc uống để chữa kiết lỵ, đau bụng, lở loét chảy nước vàng, đại tiện ra máu. Dịch của Dây chìu dùng chữa đau mắt và chữa rắn cắn.
Ở Trung Quốc, người ta dùng Dây chìu chữa viêm ruột, kiết lỵ, di tinh. Ngày dùng 10 – 30g thân, hoặc 8 – 16g rễ, sắc uống. Dùng ngoài, sắc đặc với nước để rửa vết thương.
Ở Indonesia , giã lá đắp chữa rắn độc cắn, nước ép chữa ho.
Ở Malaysia , dùng lá trị mụn nhọt, rễ trị tiêu chảy, trị bỏng.
Ở Philippines , chế nước hãm của thân uống chữa ho ra máu trong bệnh lao. Nó cũng được dùng làm nước súc miệng chữa tưa lưỡi.
Ở Campuchia, người ta dùng thân sắc uống để lợi tiểu, kết hợp với các cây khác chữa phù do gan, thận.
Đơn thuốc
- Chữa phụ nữ tích huyết, báng máu, u xơ hay gan lách sưng cứng:dùng u chạc chìu, Ngải máu, đều 20g, Xạ can, Hồi, mỗi vị 12g sắc uống.
- Chữa phong thấp, gân xương đau nhức hay chân gối sưng đau:Dây chìu, Huyết giác, Cỏ xước hay Ngưu tất, Tổ rồng, Tầm xuân, Kim cang, Dây đau xương, Dây chìa vôi (ngâm nước vo gạo 1 đêm) sao vàng, mỗi vị 15 – 20g, sắc uống. Hoặc dùng dây chìu phối hợp với Dây gắm, Thổ phục linh, Cà gai leo, Dây đau xương, Ngũ gia bì.
- Chữa di tinh, bạch đới:Dây chìu, dễ Bươm bướm, Bạc sau, Cẩu tích, mỗi vị 20g, sắc uống.








