Dấu tích mỹ thuật Chămpa trên cố đô Hoa Lư
Khi các nhà khảo cổ tìm thấy trong Hoàng thành những đầu tượng rồng bằng đất nung rất giống các con thuỷ quái Makara, các con phượng hao hao những con ngỗng Hamsa, chúng ta càng có thêm cơ sở để hình dung rằng, trong số rất nhiều tù binh được các nhà vua Lý - Trần bắt về, có những người thợ Chămpa tài hoa. Quanh kinh thành Thăng Long cho đến nay vẫn còn nhiều tên đất, tên làng, những truyền thuyết gắn bó với người Chămpa. Chúng ta không biết chính xác số người Chăm trong từng thời kỳ lịch sử, nhưng đã có lúc hẳn là không ít. Từng có một ông vua Trần ra lệnh cấm nói tiếng Chămpa, từng có một hoàng thân nhà Trần cưỡi voi tới khu vực người Chăm gần kinh thành chơi liền ba ngày.
Xét về vị trí địa lý, Hoa Lư gần với Thăng Long hơn, lại gần kề với biển. Đến nay chúng ta chưa có nhiều những chứng cứ khảo cổ để xác định mối giao lưu văn hoá Đại Cồ Việt và Chămpa thời Đinh – Lê. Nhưng sau cuộc chiến năm 982 của Lê Hoàn, hai bên đã ít nhiều xác lập được mối bang giao hoà hiếu. Trên cố đô Hoa Lư từng có hai ông vua mang hai dòng máu Chămpa, vua Lê Trung Tông và vua Lê Long Đĩnh. Một di nữ (theo Đại Việt sử lược) là một trong 5 hoàng hậu của vua Lê Đại Hành đã sinh hạ cho đời Tiền Lê hai ông vua đoản mệnh. Theo năm sinh của Trung Tông và Long Đĩnh, ta có thể chắc chắn người di nữ đó là một trong số các chiến lợi phẩm sau cuộc “bình Chiêm” năm 982. Truyền thuyết ở Hoa Lư còn nhắc đến câu chuyện “quả khế Chiêm Thành” trong vườn thượng uyển của vua Lê Ngoạ Triều là do người xứ Chiêm Thành cúng tiến.
Trong đền vua Lê trước đây có đôi tượng phỗng Chàm. Tiếc là nay đã không còn. Nhưng thông qua cách tiếp cận phong cách học nghệ thuật, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy những dấu ấn Chămpa nơi đây. Những khảo cứu của chúng tôi tập trung vào những đồ án như: những bàn tay, hình sư tử, lực sĩ trên mặt sập rồng, cặp tượng nghê đá, rồng đá.
Hình ảnh những cánh tay
Hình ảnh những cánh tay như của các vũ nữ Chăm trên mặt sập đá đền vua Đinh là một chuyện lạ. Tạo hình người Việt không có truyền thống khai thác sự biểu cảm của các thế tay. Trung Hoa cổ cũng vậy. Hoa Luận Trung Hoa có nói việc vẽ tay người là khó nhất. Cả người Việt và người Hán đều đã học hỏi được rất nhiều vũ đạo của Ấn Độ và Tây vực. Vũ đạo Trung Hoa chỉ từ đời Đường mới khai thác nhiều sự uyển chuyển của bàn tay cho đến các ngón tay. Chắc hẳn những điệu múa của các vũ nữ Chămpa với những điệu múa Tây Thiên đã làm mê đắm bao nhiêu ông hoàng Đại Việt. Sử có ghi năm Minh Đạo thứ ba (1045), vua Lý đánh vào thành Phật Thệ, bắt các vợ cả, vợ lẽ của vua Chiêm Thành cùng các cung nữ giỏi hát múa điệu Tây Thiên.
Sư tử
Sư tử không có ở cả Trung Quốc và Việt Nam . Cho nên đồ án sư tử của Trung Hoa và Đại Việt đều khá xa với nguyên mẫu thực tế. Nhưng trong mỹ thuật Chămpa thì sư tử hiện lên rất sinh động và cũng khá gần với cấu tao thực. Cho nên, chúng tôi có nhận định rằng đồ án sư tử trên sập đá đền Đinh theo phong cách tả thực là có nguồn gốc Chămpa. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi người Chiêm Thành năm Thuận Thiên thứ hai (1011) dâng sư tử. Mô tip thanh long - bạch hổ, long - phượng đã là mẫu mực thì không lẽ gì người ta lại khắc hình rồng múa với sư tử.
Những con nghê có khuôn mặt của các Dvarapala (hộ pháp)
Trong tín ngưỡng và nghệ thuật Chămpa, không có con vật nào giống với con nghê cả. Chó là con vật không có chỗ đứng trong cả Ấn Độ giáo và Phật giáo. Hiện tượng con nghê đá trước nghi môn ngoại có tạo hình giống với tượng Dvarapala ở Tháp Mẫm ở những điểm sau: mắt to, mũi khoằm, râu xoăn tít,… Tóm lại là những đặc điểm nhân chủng của người Đa đảo được thể hiện qua phong cách Ấn Độ. Cho nên nói cho thật đúng, cặp nghê này có tạo hình không chỉ giống với một bức tượng hộ pháp Chămpa nào đó, mà vì nó mang hơi thở của nghệ thuật Ấn Độ, nên nó còn rất giống với nhiều bức mặt nạ các nhân vật sử thi trong các điệu múa cung đình ở Lào, Thái Lan.
Cũng có thể với người Chăm, những niềm tin thành kính được họ chắt chiu trong từng nhát đục nên ta luôn cảm thấy được sự thiêng liêng trên từng pho tượng. Cặp nghê đá hai bên Nghi môn ngoại được khuôn lại trong cái dáng ngồi tĩnh. Cái lưng khom khom trông rất đỗi thân quen và trìu mến.
Cặp nghê đã nhuốm màu thời gian, rêu phong và lặng lẽ. Sự khiêm nhường của nó vô tình làm nhiều nhà nghiên cứu bỏ qua và các du khách thờ ơ trong các bức hình lưu niệm. Ở đền vua Đinh, hai cặp nghê đá có hai phong cách nghệ thuật với hai niên đại nghệ thuật không đồng nhất. Sự khác biệt về phong cách ở đây là sự phai nhạt phong cách Chămpa trong hệ thống điêu khắc đền vua Đinh – vua Lê. Cặp nghê đá hai bên bái đường là sự chuyển tiếp sang phong cách Trung Hoa. Cặp nghê đá này cũng là một tác phẩm điêu khắc đá xuất sắc. Nhưng gió đã bắt đầu nổi lên, các khối lông bờm đã bắt đầu bồng hơn. Người Trung Hoa đặc biệt thích gió (phong). Xin được nói thêm, phonglà một thuật ngữ quan trọng trong văn hóa Trung Hoa. Một người phương Tây sẽ rất khó hình dung tại sao trong các từ chỉ dạng thức nghệ thuật (phong cách), truyền thống tập tục (phong hoá), sự lẳng lơ (phong tình), sự uy nghi (oai phong), dáng vẻ bên ngoài (phong mạo) đều có liên quan đến chữ phong.
Những con rồng, con lân, con long mã, con nghê Trung Hoa thường thấy với những búi bờm hất tung lên, xoắn xuýt cuồn cuộn. Trong thành ngữ tiếng Hán, khi chỉ một nhân vật có thế lực đầy quyền uy, người ta chỉ cần nói phong lưu nhân vật. Con nghê ở đây (bên trong) đã không còn dấu ấn nhân chủng Chămpa. Sống mũi không còn khằm, tai không tròn nữa. Xem lâu cặp nghê đá bên ngoài Nghi môn ngoại, ta thấy có bóng dáng con người trong đó.
Mặt thao thiết – Kala
Trên sập đá ở hai đền vua Đinh vua Lê có rất nhiều khuôn mặt thú hung dữ. Người Việt chúng ta gọi nó là thao thiết. Một con vật hung dữ khắc theo thần thoại Ấn Độ là con Kala. Có một điểm tương đồng về vị trí của các thao thiết trên các sập đá cũng giống như các hình phù điêu Kala trên mặt trước của các bệ ngồi của các tượng thần, tượng La Hán. Đặc biệt là thao thiết trên sập đá ở đây cũng có những dải hoa lá đi ra từ hai bên mép như của các Kala ở điêu khắc Chămpa.
Ở bốn chân của sập đá lại còn có bốn khuôn mặt lực sỹ điển hình nhân chủng Ấn hệ là mũi khoằm, râu xoăn, mắt to rõ vành. Trên các đồ minh khí hay gia dụng Trung Hoa rất hiếm khi xuất hiện các khuôn mặt người.
Tượng rồng
![]() |
Rồng đá ở đền vua Đinh |
Phượng hoàng
Đây cũng là một đồ án rất quen thuộc với người Việt. Vậy nhưng tại sao trên trán bia khắc năm Chính Hoà thứ 17 lại khắc hình con phượng như hình con ngỗng. Chúng tôi ngờ rằng đây là một sản phẩm gia công chế từ con ngỗng thiêng Hamsa thành con chim phượng hoàng - một hiện tượng văn hoá chứ không phải là do sự non nớt của người thợ. Chúng ta nghĩ sao khi mà đề tài tứ linh chỉ thực sự nở rộ vào đời Nguyễn? Khi mà toàn bộ hệ thống đồ án điêu khắc trên gỗ ở hai đền vua Đinh – vua Lê (từ thế kỷ XVI đến XVII) không hề có một đồ án chim phượng nào? Và chúng ta nghĩ sao khi cả hai đền vua Đinh Lê đều có đôi xà ngỗng đẹp hết sức?
Ngôn ngữ điêu khắc
![]() |
Bản vẽ hình Kala trên sập đá đền vua Đinh |
Trong cuốn sách Nghệ thuật Đông Nam Á (1) của Lang Tianyong (Lương Thiên Vịnh) ngay phần mở đầu về mỹ thuật Việt Nam có in đậm dòng chữ: “Những ảnh hưởng của miền đất Hán trong văn hoá Việt Nam thời viễn cổ - Khởi nguyên Chămpa - Kiến trúc và nghệ thuật Chiêm Thành - vẻ đẹp của gốm sứ Việt Nam”. Câu đó ngụ ý rằng văn hoá Hán – Chăm đã là hai dòng chảy đi suốt một chặng dài trong lịch sử văn hoá Việt Nam . Chất văn hoá Chăm trong văn hoá Việt đôi khi bị phủ lấp bởi văn hoá Hán, làm cho chúng ta không thấy hết cái duyên nợ với Chămpa trong trường kỳ lịch sử. Khác với cuốn Du khảo văn hoá Chăm (2) của hai nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Kự và Ngô Văn Doanh trên dải đất Chiêm Thành xưa, chúng tôi lại muốn được dẫn dắt mọi người vào cuộc thám hiểm văn hoá Chăm ngay tại kinh đô Hoa Lư, kinh đô đầu tiên của nước Đại Cồ Việt.
______________
1. Lang Tianyong, Nghệ thuật Đông Nam Á , Nxb Giáo dục, Hà Bắc (Trung Quốc), 2003.
2. Nguyễn Văn Kự, Ngô Văn Doanh, Du khảo văn hoá Chăm , Nxb Thế giới, Hà Nội, 2005.