Đâu rồi, nét thanh lịch của "người Tràng An"?
Tôi sinh ra sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc (năm 1954), thời ấy Hà Nội còn nhỏ và đẹp, vừa cổ kính thanh tao, vừa yên ả thanh bình và nét thanh lịch của “người Tràng An” còn in đậm trong sinh hoạt hàng ngày. Dù không phải là người hoài cổ, nhưng đến bây giờ tôi vẫn dạy dỗ, vẫn duy trì cho các con tôi các nề nếp trong sinh hoạt gia đình mà tôi được rèn dũa từ nhỏ. Chỉ đi chơi buổi tối khi được cha mẹ đồng ý và về nhà đúng giờ. Cha mẹ bận việc thì chủ động thay cha mẹ về thăm sức khỏe ông bà. Con gái phải nắm được vài ba kỹ năng bếp núc. Mặc đẹp nhưng kín đáo. Ra đường biết giúp đỡ trẻ em và người cao tuổi. Không tranh giành, hò hét om xòm giữa đám đông. Không nói tục. Đi hay về đều chào hỏi. Ngồi vào mâm biết “so đũa” cho mọi người. Khi ăn không được nhồm nhoàm, không được “và” quá ba lần, múc canh xong không được để “ngửa” muôi trong bát, không gắp thức ăn theo lối... “câu giật”. Trước rồi sau khi ăn phải mời và xin phép (vô phép) từ người lớn nhất trở xuống (nên mới có giai thoại kể rằng có cu cậu ngồi vào mâm, mời vội mời vàng mà thành: “Bố câm, mẹ câm, cả nhà câm...”!)... Nghĩa là có khá nhiều hành vi mà ai đó coi mình là “người tân tiến” sẽ xem là rườm rà, cổ hủ, nhưng tôi lại nghĩ chính các nền nếp có tính quy phạm trong gia đình ấy lại là “bệ phóng” cho mỗi người khi tham gia vào sinh hoạt xã hội... Tôi và bạn bè lớn lên vào lúc đất nước còn nghèo, sau đó lại có chiến tranh, bạn bè cũng lứa với tôi có thể mặc chiếc quần chiếc áo có miếng vá to tướng đến trường, thậm chí có người buổi sáng chưa có cái gì cho vào bụng, nhưng những điều mẹ cha đã dạy: “đói cho sạch, rách cho thơm”, “kính già, yêu trẻ”, “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”... vẫn giữ nguyên ý nghĩa.
Để có một “văn hóa Hà Nội”, cha ông đã phải trải qua rất nhiều thời gian tạo lập và xây đắp mới có thể làm nên điều chúng ta vẫn nhắc tới trong câu ca dao: “Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Hàng nghìn năm đã trôi qua, lịch sử thăng trầm của đất nước luôn trực tiếp đưa tới các biến động ở kinh thành Thăng Long và sau này là thủ đô Hà Nội, nhưng văn hóa Tràng An vẫn hầu như không xảy ra biến động lớn, vẫn giữ được vai trò là một biểu tượng trung tâm của văn hóa dân tộc. Cách đây hơn một trăm năm, người Pháp đến Việt Nam cũng vậy, họ đã làm cho diện mạo tự ngàn xưa của Hà Nội bị biến đổi về cơ bản, với các biệt thự và đường phố được tổ chức theo kiểu Pháp, với sự ra đời của những thói quen mới trong sinh hoạt hàng ngày: làm theo ca kíp và đi làm đúng giờ, ăn “cơm Tây” và làm quen với xà-lách ( salade) súp-lơ ( chou-fleur), đi tàu điện và ngồi trên xe ô tô, uống rượu vang và uống bia, mặc quần áo “Tây” và đội mũ “phớt”... Nhưng phải nói rằng phong cách phương Tây cùng thói quen mới (trong đó hẳn là có nhiều ý nghĩa tích cực) đã không làm biến đổi cái “bất biến” của văn hóa Hà Nội là sự thanh lịch, đến thập kỷ 60 - 70 của thế kỷ trước, thanh lịchvẫn còn là một giá trị để người Hà Nội tự hào. Vậy mà chỉ có hơn chục năm gần đây, Tràng An chốn xưa như đang bị “lột xác” theo xu hướng chưa hẳn là tích cực và dường như đang phát lộ dấu hiệu của các hành vi sống có khả năng bào mòn những gì vốn đã làm nên bản sắc thanh lịch của đất thần kinh? (thần kinh: kinh đô).
Hà Nội của những năm đầu thiên niên kỷ thứ hai như đã là một hình ảnh khác lạ. Hối hả và nhộn nhạo. Mới mẻ và xô bồ. Văn minh công nghiệp và văn minh nông nghiệp. Lịch lãm và lố lăng. Thói hợm của và lối sống giản dị... Và có lẽ người ta chỉ còn gặp lại hình ảnh của “người Tràng An chính hiệu” ở những khu phố cổ. Các cô các cậu con nhà gia giáo ngày xưa nay đã già lắm rồi, cái thú vui vào tối thứ bảy rủ nhau đi xem tuồng hay xem cải lương ở rạp Chuông Vànghay rạp Quảng Lạcđã bị triệt tiêu từ lâu. Hàng ngày các cụ chỉ còn mỗi việc xem ti-vi và ra vào trên gác, thi thoảng ngó xuống đường - nơi con phố nhỏ hẹp chen chúc xe cộ, tiếng còi xe inh tai, tiếng phanh xe kin kít... cùng những tiếng chửi thề mà ngày còn trẻ, mới chỉ nghĩ đến là các cụ đã thấy đỏ mặt. Văn hóa kinh kỳ đang chuyển dịch, đó là sự thật, giống như sự vắng bóng của những gánh phở đêm khói thơm nghi ngút, của những chị bán la-gim ( légume- rau quả) tha thướt trên hè... và bên cạnh đấy là sự xuất hiện ồ ạt, tràn lan của những restaurantvà những “bãi bia” mà có điều khôi hài là ở đó, rau lang luộc chấm xì-dầu, rau muống xào tỏi lại trở thành... đặc sản! Như có lần ở chợ, biết tôi đi mua rau sống và lại là đàn ông, một chị mặt hoa da phấn váy áo lòa xòe nhiệt tình khuyên tôi nên mua thêm giá đỗ, thấy tôi không mua, chị bảo: “Ăn rau sống mà không có giá đỗ thì không phải là người Hà Nội!”. Nghe vậy, tôi biết chị không phải là người Hà Nội, cái tinh tế trong văn hóa ẩm thực của người Hà Nội thể hiện ở việc người ta chọn rau sống như thế nào để có thể tương ứng với hương vị của từng món ăn, từ riêu cua, riêu cá, canh dưa chua, canh ốc, canh hến... đến bún chả, bún nem...
Vào những ngày này, người Hà Nội như đang mơ về một thời yên ả, cái tĩnh lặng êm đềm lúc 9 - 10 giờ tối trở đi nay đã thành quá vãng. Các khu phố mới tinh không kịp nhớ tên, bên các chung cư cao ngất ngưởng. Các cửa hàng fast fooddành cho công chức trẻ vào lúc giữa trưa, bên các quán cafe wificó người “cắm rễ” ở đó suốt ngày. Các biển hiệu nhà băng, bên các shopthời trang có “cô mannequin” giống tâynhiều hơn giống ta. Rồi xe máy. Rồi ô-tô. Rồi karaoke. Rồi massage... Tất cả đã làm nên một diện mạo mới của Hà Nội mà dù là người hoài cổ đến đâu thì người ta cũng biết rằng một thành phố trên đường hiện đại hóa hiển nhiên không tránh khỏi sự nhộn nhịp và ồn ào. Nhưng sự nhộn nhịp, ồn ào của Hà Nội hôm nay dường như đang thiếu vắng sự thanh lịch và cũng dường như đang đứng trước nguy cơ phai nhạt một bản sắc. Sự tăng lên của dân cư Hà Nội trong một hai chục năm qua đồng nghĩa với một quá trình tích hợp văn hóa từ nhiều vùng đất nước, tuy nhiên, muốn làm chủ một văn hóa, trước hết người ta phải biết sống bằng và với những giá trị của chính nó. Tiếc thay văn minh đô thị thời mở cửa lại đang làm biến dạng sinh hoạt sống đã tồn tại hàng ngàn năm của người Tràng An, mà nay tuy chưa hẳn tất cả nhưng đã là lạc hậu.
Ở Hà Nội bây giờ, mỗi khi ra đường là hầu như mọi người đều phải chuẩn bị tinh thần để đương đầu với các thử thách. Thử thách với dòng xe cộ lao vun vút bất cần luật lệ và nếu có nhỡ bị ai va quệt thì tốt nhất là im lặng, bởi dù bạn có đi đúng luật thì vẫn có thể nhận được vài ba câu chửi hoặc hơn nữa là một hai cái bạt tai. Thử thách với các gánh hàng rong mà người ta có thể bám theo tới khi nào bạn móc hầu bao ra mua thì họ mới chịu thua. Thử thách với các loại hàng hóa nhãn mác rất đàng hoàng, giá cả cao ngất nhưng xuất xứ có khi lại đâu đó... ở ngoại thành!… Và nếu muốn “mục sở thị” cái cung cách sinh hoạt xô bồ của đất Tràng An trong những năm tháng này thì hãy chịu khó dạo qua một vài “bãi bia” vào quãng buổi trưa hoặc xế chiều. Đến đây, không cần phải tìm trong từ điển, bạn vẫn có thể hiểu thế nào là khái niệm “vỡ chợ” vì ở đó, sự ồn ào, sự nhồm nhoàm, sự dung tục… đã áp đảo thói quen ăn uống nhẹ nhàng và thanh cảnh của người Hà Nội truyền thống. Trong tiếng quạt vù vù, dưới những chiếc ô xanh đỏ, bên những nồi lẩu được chế biến theo nhiều cung cách lạ lẫm là những gương mặt đỏ bự, là tiếng “zô, zô...” như muốn thi nhau hét càng to càng tốt, rồi nữa là vô khối ngôn từ tục tằn liên tục thốt ra như thứ ngôn ngữ “tiền văn hóa” đang được ưa chuộng... Nghĩa là ở các “bãi bia” đang mọc lên như nấm, đối với nhiều người vốn tự hào là “người Hà Nội” thì đôi khi sự lịch lãm đã trở thành một dạng thức sáo ngữ nhiều hơn là một giá trị thực hành. Lại nghĩ về ngày xưa, cứ một hai tháng cha mẹ lại dẫn anh chị em tôi đi ăn cơm hiệu. Hôm nào ăn “cơm Tàu” thì đến Đông Hưng Viênở phố Hàng Buồm, hôm nào ăn “cơm Tây” thì đến Phú Gia, Bodega. Tôi nhớ các nơi ấy chủ yếu vì không khí thanh lịch, nhẹ nhàng, từ tốn của thực khách, qua đó muốn so sánh với lối ăn uống ồn ã ở vô số nhà hàng hôm nay. Có người cố gọi món ăn thật to như để tỏ ra sành sỏi. Có người quát mắng nhân viên nhà hàng như để chứng tỏ tư cách “thượng đế”. Và có lẽ rồi dần dà người ta cũng không còn lấy làm ngạc nhiên nếu đang ngồi trong một cửa hàng giải khát mà lại nghe thấy ai đó thánh thót: “Cho hai lâu lóngnhé!”... Người ta “diễn”, người ta gồng mình để làm gì nhỉ, chẳng lẽ đó lại là phong cách mới của thực khách Hà Thành?
Cha tôi kể (và trong cuốn sách Nhớ và ghi, nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng nói tới chuyện này) rằng ở Hà Nội ngày trước, mỗi buổi sáng đều có các anh cu-lít ( police- cảnh sát) đạp xe dọc theo các phố, thấy trước nhà nào còn vương rác rưởi là anh ta dán lên cửa một cái hóa đơn, đến giờ, nhà ấy tự giác ra “bốt” mà nộp phạt. Còn bây giờ, việc xả rác bừa bãi đang trở thành một thói quen mà tôi nghĩ không thể kéo dài hơn của người Hà Nội. Rác có mặt khắp nơi, rác xuất hiện bất kỳ nơi nào người ta muốn vứt, và kinh hoàng nhất là thói quen ném xác chuột chết ra đường. Rồi túi ni-lông, rồi cọng rau muống, rồi nước vo gạo, nước rửa bát của các hàng phở, hàng cơm bình dân... tràn lan trên vô số cống rãnh, trên mặt đường. Ngày trước nhà tôi ở một khu tập thể, căn hộ kế cận của một vị quan chức sau khi nghỉ hưu thì về quê, dành nhà cho vợ chồng anh con trai. Hồi đầu cũng bình thường, nhưng từ khi ăn nên làm ra thì anh con trai bỗng khác hẳn, ăn to nói lớn và có một thói quen đáng yêu là hay nhắc nhở tôi: người Hà Nội phải thế này, người Hà Nội phải thế kia. Nghe lời nhắc nhở còn nhầm lẫn giữa “n” với “l” tôi chỉ cười. Lại nhớ hơn chục năm rồi, gia đình ấy chưa bao giờ cầm chổi quét cầu thang dẫu bảng ghi lịch phân công dọn vệ sinh khu tập thể treo ngay đầu dãy. Thậm chí cả đoạn hành lang trước cửa cũng không ngó ngàng, mấy cháu nhà tôi thấy bẩn thì ra quét, từ trong nhà nhìn ra, họ bình thản như trách nhiệm không thuộc về mình! Và còn phải kể một chuyện kỳ khôi rằng có lần thấy nhân viên thu tiền điện gọi mãi không được, ngỡ họ đi vắng, tôi liền đóng hộ. Dè đâu lát sau anh chồng lại lon ton sang trách: “Cháu ở trong nhà, chú nộp hộ cháu làm gì, để “nó” đến vài lần mới trả cho bõ ghét, bọn cháu toàn thế thôi!”. Thêm một lần ngạc nhiên nhưng tôi lại cười. bụnghỏi dạ: người Hà Nội mà như thế ư?
“Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”, nhiều thói quen có nguồn gốc tiểu nông tư hữu từ mọi miền quê đang du nhập vào đất Tràng An. Và nếu muốn ngắm nghía thói quen ấy, bạn chỉ cần ra các ngã ba ngã tư nơi mọi người (đi xe đạp, ô-tô hay xe máy) đều cố gắng bằng mọi cách chen lên phía trước, dù chỉ nhằm đoạt lấy một mẩu đường dài bằng nửa cái bánh xe. Họ lấn sang cả làn đường bên trái, quyết giành lấy một chỗ cho riêng mình, để rồi làm khổ lẫn nhau vì đường tắc. Rồi nữa là mấy chàng trai tóc bóng mượt, vuốt dài ra phía sau, lưng đeo túi đựng laptop cùng mấy cô gái váy áo may theo lối hiện đại hay mặc đồng phục công sở ngồi trên “xe ga” - những con người như là đại diện cho văn minh mới, nhưng sểnh một cái, không thấy bóng công an là vọt nhanh qua đèn đỏ, thậm chí còn nhìn về phía những ai đang đứng chờ qua đường bằng ánh mắt như vẫn còn vấn vương nỗi thắc mắc: Hà cớ chi mấy kẻ kia chưa còn chưa dám vượt (?!). Vội vàng là thế, hối hả là thế, song mỗi khi trên đường xảy ra một sự cố giao thông hoặc một việc gì đó lại có không ít người không tiếc thời gian tụ bạ ngó nghiêng, bàn tán với một sự tò mò thích thú, nhiều khi đến vô cảm, mặc người bị nạn nằm còng queo dưới đất... Buồn thay!
Văn hóa, đó là những lớp “sa bồi” được tạo nên bởi bàn tay và trí tuệ con người theo những biến chuyển thời gian, và không có cái gì khác, văn hóa chính là hệ thống giá trị duy nhất để con người có thể tồn tại với “tư cách người”, giúp họ ngày càng đẹp hơn, ngày càng tốt hơn. Với sự phát triển của văn minh, không thể lấy cày chìa vôi thay thế cho máy gặt đập, cũng không thể lấy thuyền độc mộc thay thế tàu viễn dương... nhưng với văn hóa thì chuyện không đơn giản, như một học giả đã nói đại ý rằng con người có thể mất mấy chục năm để làm nên một nền kinh tế, nhưng con người phải mất hàng nghìn năm mới có thể làm nên một bản sắc văn hóa. Sống với các tiện nghi hiện đại và văn minh song chưa hẳn là sống có văn hóa, đó là thực tế khách quan. Thời đại đã khác trước, điều kiện sống đã khác trước, nhận thức của con người cũng đã khác trước... tất cả các sự “khác” ấy đang đòi hỏi văn hóa Tràng An cần vận động phát triển. Và không có cách nào khác, phát triển mang ý nghĩa nhân văn, phát triển trên cơ sở sáng tạo từ những nét thanh lịch truyền thống mới là sự phát triển đúng nghĩa của văn hóa Tràng An trong thế kỷ này, và phải chăng đã đến lúc, người Tràng An đang cần được đào tạo về những điều làm nên sự “thanh lịch”?
Nguồn : Đặc san “ Phong cách” số 10/2007