Đào tạo đại học quản trị thông tin tại Việt Nam
1. Quản trị thông tin-chức danh phổ biến trong nền kinh tế mới
Thập niên cuối cùng của thế kỷ XX người ta càng nói nhiều hơn về sự ra đời của xã hội thông tin và nền kinh tế dựa trên tri thức (Knowledge-based Economy). Một trong số các học giả tiên phong tiên đoán xu thế này là nhà khoa học Hoa Kỳ Daniel Bell. Trong công trình nổi tiếng " Xã hội hậu công nghiệp đang tới” [4 ], ông viết " xã hội công nghiệp dựa trên nền công nghệ cơ khí, xã hội hậu công nghiệp dựa vào công nghệ trí tuệ. Nếu tư bản và lao động là hai đặc trưng cấu trúc của xã hội công nghiệp thì thông tin và tri thức là sự thay thế chúng trong xã hội hậu công nghiệp".
Xã hội hậu công nghiệp được D.Bell đề cập vào đầu thập niên 70, được nhắc đến nhiều sau đó và ngày nay với cái tên gọi là " xã hội thông tin".
Khác với xã hội công nghiệp và nông nghiệp trước đây, xã hội thông tin phát triển, dựa trên nguồn lực cơ bản là thông tin và tri thức. Bằng việc nghiên cứu diễn biến của xã hội TT đang xảy ra ở nhiều nước, GS. Nick Moore trong bản cáo trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã khái quát 3 đặc trưng cơ bản của xã hội TT [ 15 ]:
- TT được coi là một nguồn lực phát triển quan trọng nhất. Nhờ có TT mà hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các tổ chức kinh tế không ngừng được nâng cao;
- Việc sử dụng TT ngày càng được mở rộng trong cộng đồng dân cư do dân trí được nâng cao và điều kiện truy cập tới TT không ngừng được cải thiện;
- Ra đời phát triển một ngành công nghiệp mới ở ngay trong nền kinh tế: ngành công nghiệp TT. Ngành công nghiệp này làm tăng hàm lượng TT trong nền kinh tế và chuyển nền kinh tế cổ điển sang nền kinh tế thâm dụng TT (Information Intensive Economy).
Trước kia, trong nền kinh tế mỗi công ty có một tổng giám đốc điều hành các việc chung và giúp việc cho tổng giám đốc là các giám đốc chuyên môn như: giám đốc kinh doanh, giám đốc công nghệ, giám đốc sản xuất,... Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, việc thông tin trở thành nguồn lực phát triển và là yếu tố cấu thành trong mọi cơ quan, ở nhà nước đã xuất hiện không ít các chức danh về thông tin như: giám đốc thông tin (information director), QTTT (infomation manager), hay trưởng thông tin (CIO) ,...
Bộ phận thông tin của một cơ quan thông thường rất gọn nhẹ, phụ thuộc vào qui mô, được tổ chức từ 3 đến 9 nhân viên. Trong môi trường rất năng động của nền kinh tế mới cán bộ quản trị thông tin phải thực thi các quá trình thông tin (nắm biết nhu cầu tin, thu thập, tổ chức, phân tích, xử lý thông tin), quản lý hệ thống thông tin, thực hiện việc trợ giúp và tư vấn thông tin cho các nhiệm vụ và công việc của cơ quan.
Tổ chức cơ quan thông tin có hai loại sau đây:
- Các cơ quan thông tin chuyên nghiệp độc lập;
- Các đơn vị thông tin phụ thuộc.
Trong nền kinh tế quốc dân, ngoại trừ một số không lớn các cơ quan thông tin độc lập được tổ chức riêng biệt, phần lớn hoạt động thông tin trong xã hội được thực hiện ở các đơn vị thông tin loại sau. Điểm khác nhau cơ bản của hai loại tổ chức thông tin trên đây là ở chỗ, loại tổ chức thông tin sau được gắn kết hữu cơ với bản thân hoạt động của các cơ quan chủ quản do vậy, chúng là tổ chức hỗ trợ phục vụ cho chính đơn vị chủ quản là: cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan khoa học, hoặc tổ chức kinh tế-thương mại. Cơ quan chủ quản sẽ không hỗ trợ và không thành lập các đơn vị thông tin như là các tổ chức thư viện-thông tin tự thân, mà chúng phải là công cụ, hợp phần hữu ích cho việc thực hiện các mục tiêu của chính cơ quan.
Chuyển đổi nền kinh tế sang hướng thị trường đòi hỏi và đặt ra các yêu cầu rất nghiêm ngặt về chất lượng và mức cạnh tranh của sản phẩm. Điều đó sẽ làm cho nhu cầu thông tin trở thành cấp bách, đa dạng và phong phú. Trong xã hội hiện đại, con người đòi hỏi phải được thỏa mãn nhu cầu thông tin không phải chỉ ở việc cung cấp tư liệu, mà còn các thông tin về dữ kiện và thông tin tổng hợp. Các nguồn lực thông tin đa dạng về xã hội, kinh tế, khoa học và công nghệ nếu được tổ chức tốt, và có phương thức khai thác có hiệu quả sẽ là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra tiền đề cho phát triển bền vững và công bằng xã hội.
Nước ta hiện nay về cơ bản vẫn còn là nước nghèo và chậm phát triển. Sự lạc hậu và chậm phát triển đó của đất nước là có nguyên nhân từ sự nghèo nàn về thông tin và sự kém cỏi trong việc tổ chức và khai thác các nguồn lực thông tin trong toàn xã hội. Để chuẩn bị cho đất nước hội nhập vào “xã hội thông tin toàn cầu”, xây dựng và phát triển nền ” kinh tế tri thức”, xã hội cần có một đội ngũ cán bộ quản trị thông tin có chuyên môn cao mà hệ thống giáo dục-đào tạo của ta đến nay còn nhiều bất cập.
2. Mô hình người cán bộ QTTT
Chuyên gia thông tin sẽ là người cán bộ thế nào trong trong thời kỳ đầu của xã hội thông tin như ở nước ta?
Trả lời câu hỏi trên đòi hỏi phải hình dung được mô hình người cán bộ thông tin trong tương lai.
Cơ sở phương pháp luận để xây dựng mô hình người chuyên gia thông tin là chính sách cán bộ của Đảng, mà một phần được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương II về “Định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa”. Phân tích các tài liệu, có thể bóc tách thành 4 nhóm yêu cầu phẩm chất đối với người chuyên gia ở bậc đào tạo đại học:
- Chính trị-tư tưởng;
- Chuyên môn;
- Tổ chức;
- Tâm lý-xã hội.
Nghề thông tin ngày nay ngày càng trở nên rất phổ biến và có ngày càng có vị trí trong xã hội. Giáo sư Nick Moore-một trong số các chuyên gia hàng đầu về nhân lực thông tin ở các nước công nghiệp, từ cách đây 25 năm khi nghiên cứu cấu trúc và động thái quá trình hình thành và phát triển nhân lực thông tin, đã khẳng định vị trí chuyên nghiệp của nghề thông tin và xem đó là một trong các điểm của chính sách phát triển đội ngũ trí thức của quốc gia. Nghề thông tin, theo quan điểm hiện đại, được gọi chung là nghề nghiệp liên đới tới các công việc (quá trình) sản xuất, xử lý, biến đổi, quản trị, và sử dụng các dạng thông tin phục vụ cho các mục đích xã hội. Theo chuyên môn nghề nghiệp này, người cán bộ thông tin cần thực hiện bốn nhóm công việc chức năng tụ trong hàm ý bốn chữ cái “C” của tiếng Anh là [14]:
C1- kiến tạo các sản phẩm thông tin (creators): kết quả tạo ra được các dạng sản phẩm thông tin như các cơ sở dữ liệu (CSDL), các loại xuất bản phẩm thông tin, các bảng tra, các danh mục (directory),...
C2- tạo lập kho thông tin (collectors): thông qua quá trình bổ sung và tổ chức có thể kiểm soát và/hoặc với tới một khối lượng nguồn tin cần và đủ cho một lĩnh vực hoạt động.
C3- tinh chế và biến đổi thông tin (consolidators): sử dụng các phép biến đổi, xử lý nội dung ngữ nghĩa để tăng phần giá trị về nội dung thông tin. Nhờ có chức năng này, người dùng tin trong xã hội sẽ có thêm nhiều sản phẩm và dịch vụ thông tin có trị giá gia tăng cao (Value-added services).
C4- lưu thông thông tin (communicators). Định đề của C. Mooers-nhà khoa học Hoa kỳ sáng lập ra lý thuyết tìm tin, rằng “thông tin chỉ có giá trị khi bản thân nó (thông tin) có giá trị và được sử dụng” đòi hỏi phải tích cực đưa thông tin, dữ liệu, tư liệu đến người sử dụng, chứ không phải chỉ đặt chúng trong kho bảo quản cực an toàn. Trong môi trường thông tin vấn đề “truy cập” vì vậy được đặt ra còn quan trọng hơn việc “sở hữu”. Giao tiếp một cách chủ động và tích cực với người sử dụng thông tin, đẩy mạnh các mối tương tác giữa các cơ quan thông tin làm cho các vốn thông tin được quay vòng nhanh trong thực tiễn trở thành điều có ý nghĩa “cốt tử” của hoạt động thông tin trong thời kỳ kinh tế vận hành theo định hướng thị trường.
Để có thể tổ chức và phát huy được nguồn lực thông tin trong các cơ quan cán bộ quản trị thông tin cần phải thực hiện các công việc sau đây:
- Biết xác đinh cơ quan cần thông tin gì (hiểu biết và xác định được nhu cầu tin của người dùng tin);
- Biết tổ chức và quản trị các nguồn lực thông tin cho cơ quan (nguồn lực thông tin bên trong và nguồn lực thông tin bên ngoài);
- Biết cách tìm và tìm ở đâu các thông tin cần thiết;
- Hiểu được ý nghĩa (nội dung cơ bản) của thông tin đang được quản trị;
- Biết hướng dẫn các cơ quan hoạt động dựa trên thông tin để đạt được các kết quả tốt nhất;
- Biết hướng dẫn cách sử dụng, khai thác thông tin phục vụ cho công việc phù hợp với khuôn khổ của pháp luật.
Như vậy, người cán bộ quản trị thông tin trong nền kinh tế mới thực chất phải là một nhà tổng quát (generalist) mà việc đào tạo cần phải tính đến.
Để thực hiện các chức năng và công việc trên đây, người cán bộ thông tin cần được trang bị các kiến thức và kỹ năng về các lĩnh vực [7,10,11,12]:
- Kiến thức về thông tin (Information knowledge) bao gồm cả kiến thức về tin học tư liệu.
- Kiến thức chuyên ngành (Subject knowledge), ví dụ, các ngành trong phân loại khoa học và/hoặc trong phân loại ngành kinh tế quốc dân;
- Kiến thức về quản lý (Managerial knowledge).
Nghề thông tin có một số đặc điểm cần được lưu ý trong quá trình lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực và thực hiện qui trình đào tạo.
* Đặc điểm liên ngành
Trước hết đây là lĩnh vực mang tính đa ngành, hội tụ các kiến thức về các lĩnh vực [10,6]:
- Khoa học xã hội và nhân văn: Các kiến thức về quản lý, kinh tế, xã hội, tâm lý, ngôn ngữ...
- Khoa học chính xác: Các phần của toán học rời rạc, lý thuyết thông tin, nhận dạng,...
- Khoa học công nghệ: Kỹ thuật và công nghệ, tin học và viễn thông, công nghệ đa phương tiện.
* Đặc điểm ứng dụng
Lĩnh vực thông tin có định hướng áp dụng rất lớn. ứng dụng này có thể theo tuyến:
- Ngành tri thức: sinh học, hóa học, vật lý,...
- Lĩnh vực hoạt động: Công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, y tế,...
- Phạm vi chức năng: Quản lý, nghiên cứu-đào tạo, sản xuất, kinh doanh,...
* Đặc điểm biến chuyển
Phương pháp quản trị và xử lý thông tin thay đổi rất nhanh, từ đó cần phải có cơ chế cập nhật và chiến lược đào tạo liên tục (continuing education).
* Đặc điểm phi trù mật
Thông tin là đơn thể cấu thành của mọi tổ chức trong xã hội. Các quá trình thông tin không tồn tại tự thân mà chúng là hợp phần của các quá trình thực tiễn (quản lý, nghiên cứu, đào tạo, sản xuất, kinh doanh,...). Từ đây, tổ chức thông tin tồn tại trong mọi hoạt động của mọi cơ quan thuộc tế bào xã hội (cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức xã hội,...), vì vậy, cán bộ thông tin phân trải khắp các cơ quan và các ngành các cấp.
3. Giải pháp về tổ chức đào tạo
Cho tới nửa đầu những năm 90, liên quan tới các khía cạnh khác nhau về thông tin, ở bậc đại học, nước ta đã có một số ngành đào tạo sau:
- ở chương trình đại học khối khoa học công nghệ: đào tạo tại các khoa điện tử, tin học-công nghệ thông tin (ở các trường Đại học Bách khoa hoặc khoa Toán-Tin học, công nghệ thông tin ở các trường Đại học Tổng hợp). Sinh viên tốt nghiệp các khoa trên có bằng cử nhân hoặc kỹ sư tin học hoặc công nghệ thông tin.
- ở chương trình khối khoa học nhân văn, sinh viên được đào tạo tại các trường Đại học Văn hóa (khoa Thư viện-Thông tin ) hoặc ở các Trường Đại học Tổng hợp (khoa Thông tin- Thư viện, khoa Lưu trữ). Sinh viên tốt nghiệp các khoa này được nhận văn bằng cử nhân văn hóa hoặc khoa học nhân văn có khả năng làm việc tại các thư viện, các cơ quan lưu trữ.
Như vậy đến thời điểm đó, liên quan tới công việc thông tin và tư liệu, nước ta mới có cơ sở đào tạo ở bậc đại học cho 3 ngành: tin học và công nghệ thông tin, thư viện và lưu trữ.
Rõ ràng, để khắc phục sự nghèo nàn và kém cỏi về thông tin của đất nước, chúng ta còn rất thiếu phần ngành (nghề) rất cơ bản là các cử nhân về khoa học thông tin, quản trị thông tin, hệ thống thông tin.
Tên gọi các nghề nghiệp này cũng rất thường gặp ở các nước phát triển. Tại Hoa Kỳ, hiện có trên năm chục trường đại học có khoa đào tạo về khoa học thông tin, quản trị thông tin, hệ thống thông tin từ bậc cử nhân tới bậc tiến sĩ khoa học [5]. ở Cộng hòa Liên bang Nga, bên cạnh khoa thư viện thuộc các trường đại học văn hóa, nơi đào tạo “cử nhân thư viện”, tại Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia về các Khoa học Xã hội và Nhân văn có Khoa Thông tin học để đào tạo “cử nhân thông tin học” và cử nhân “Đảm bảo thông tin cho quản lý”. Học viện Kinh tế mang tên Plekhanov tiến hành đào tạo cử nhân ngành “Hệ thống thông tin”, Trường đại học quản lý Moskva đào tạo cử nhân quản trị thông tin.
Nên đưa việc đào tạo cán bộ thông tin học vào khối ngành nào? trường đại học nào? Trong Chỉ thị 95-CT (năm 1991) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có ghi rõ: “Đào tạo kỹ sư thông tin khoa học và công nghệ và đào tạo cán bộ trên đại học về ngành này”. Trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020 được soạn thảo năm 1998 có đề ra mục tiêu xây dựng một khoa thông tin học và quản trị thông tin tại Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn thuộc Đại học quốc gia Hà Nội. Nhiều văn bản pháp quy của nhà nước, nhiều kết luận của các Hội nghị ngành, nhiều chương trình phát triển khoa học và công nghệ đều đã khẳng định nhu cầu cấp thiết của việc đào tạo cán bộ ở bậc đại học ngành thông tin học và quản trị thông tin. Nhiệm vụ trên đây là rõ ràng và đúng đắn. Tuy nhiên, ngay trong quá trình soạn thảo Chỉ thị 95 chúng tôi đã kiến nghị nên đổi danh hiệu“kỹ sư thông tin” thành “cử nhân thông tin học và quản trị thông tin” hoặc gọn hơn là “cử nhân quản trị thông tin ”. Vì bản chất của vấn đề thông tin ở đây thuộc về các lĩnh vực xã hội, quản lý chứ không phải là lĩnh vực thuần túy kỹ thuật - công nghệ và cũng để tránh lẫn với các kỹ sư tin học và công nghệ thông tin đã có.
Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, việc đào tạo cán bộ QTTT có thể theo các phương cách khác nhau:
- Xây dựng một ngành mới;
- Phát triển và mở rộng trên cơ sở một ngành đào tạo đã có, như: thư viện, quản trị, tin học.
Theo tinh thần trên, năm 1995 tác giả bài này đã đề xuất và chủ trì xây dựng tờ trình mở ngành đào tạo về quản trị thông tin và năm 1996, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Quyết định số 6489/KHTC cho phép Trường Đại học Dân lập Đông Đô tiến hành công tác đào tạo ngành Thông tin. Chương trình khung đào tạo cử nhân ngành Thông tin học và Quản trị thông tin ở Trường Đại học Dân lập Đông Đô được xây dựng bao gồm các khối kiến thức và kỹ năng cơ bản và hiện đại về thông tin, công nghệ thông tin, quản trị thông tin và các kiến thức liên ngành khác. Học xong chương trình, sinh viên ra trường có khả năng làm công tác nghiên cứu và giảng dạy về khoa học thông tin, đảm nhận và tổ chức các khâu công tác của quá trình thông tin-tư liệu, biết điều hành và quản lý cơ quan thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan-bộ phận thông tin, tư liệu, thư viện và văn phòng.
Với mục tiêu đào tạo trên đây, chương trình đào tạo cử nhân đại học “Thông tin học và Quản trị thông tin” ngay từ ngày đầu đã bao gồm phần giáo dục cơ bản và phần giáo dục chuyên nghiệp, trong đó phần giáo dục chuyên nghiệp được chia thành 3 khối kiến thức sau:
- Khối kiến thức cốt lõi;
- Khối kiến thức chuyên môn chính;
- Khối kiến thức chuyên môn tự chọn.
Khối các kiến thức cốt lõi có thời lượng là 47 đơn vị học trình (đvht), bao gồm các môn học sau đây:
+ Thông tin học;
+ Toán học trong thông tin;
+ Lịch sử khoa học và công nghệ;
+ Lịch sử học thuyết kinh tế;
+ Công nghệ thông tin;
+ Thư viện-thư mục.
+ Lý thuyết hệ thống thông tin;
+ Ngôn ngữ tìm tin;
+ Tin học tư liệu.
Khối kiến thức chuyên môn chính có thời lượng là 55 đvht, bao gồm các môn học sau:
+ Nguồn lực thông tin;
+ Xử lý ngữ nghĩa thông tin;
+ Lưu trữ và tìm tin;
+ Hệ thống thông tin tư liệu-dữ kiện;
+ Nhu cầu tin và đảm bảo thông tin;
+ Sản phẩm và dịch vụ thông tin;
+ Hệ quản trị dữ liệu văn bản;
+ Internet và công nghệ Web
+ Tiêu chuẩn hoá hoạt động thông tin;
+ Tổ chức và quản lý cơ quan thông tin;
+ Kinh tế thông tin;
+ Xã hội thông tin.
Khối kiến thức tự chọn có thời lượng là 21 đvht, được bố trí giảng dạy vào các học kỳ 7-8, bao gồm các môn học:
+ Thông tin công nghệ;
+ Thông tin nghiên cứu triển khai;
+ Thông tin tiêu chuẩn;
+ Thông tin sở hữu trí tuệ;
+ Thông tin thương mại và thương mại điện tử;
+ Thông tin quản lý;
+ Thông tin hành chính-lưu trữ;
+ Trí tuệ nhân tạo và hệ chuyên gia;
+ Phương pháp luận sáng tạo.
Việc xuất hiện ngành học quản trị thông tin và kết quả qua 15 năm đào tạo tại Khoa TTH&QTTT Trường đại học dân lập Đông Đô với hơn 1700 cử nhân quản trị thông tin đã ra trường, trong đó nhiều người đã có việc làm phù hợp, đã góp thêm minh chứng để khẳng định về sự cần thiết của ngành học này và uy tín của Khoa TTH&QTTT. Cũng trong gần hai thập niên qua, thực tiễn phát triển các khoa thư viện cho thấy xu thế tích hợp với thông tin, để hoạt động này chuyển từ quản trị tư liệu sang quản trị thông tin và quản trị tri thức. Đứng trước nhu cầu của cán bộ thông tin và sự tích hợp của hoạt động TT-TV, sự phát triển tiếp theo là cần mở rộng các cơ sở đào tạo TT-TV (hoặc TV-TT) hiện có thành các khoa lớn với các chuyên ngành:
- Thư viện;
- Tư liệu và lưu trữ - văn thư – quản trị văn phòng;
- Quản trị thông tin;
- Hệ thống/mạng thông tin.
Trên thế giới, không ít các cơ sở đào tạo ở các nước, ví dụ ở Oxtralia, Niu Zealan, Anh… các chuyên ngành trên xuất hiện dưới một tên gọi chung “ Quản trị thông tin”, “ Khoa học thông tin”. Việc phát triển ngành học này trên địa bàn các cơ sở đào tạo cũ về thông tin – thư viện tại các Trường đại học văn hoá và Trường Đại học khoa học XH&NV ở TP Hà nội và TP Hồ Chí Minh, và mở mới tại nhiều cơ sở mới như Đại học Cần thơ (Trong khuân khổ dự án với Niu Zealan), và một số trường đại học ngoài công lập khác chắc chắn sẽ góp phần làm đội ngũ nhân lực của ngành thông tin được thêm hoàn tất, góp phần đáp ứng đúng yêu cầu và nội dung các Văn bản pháp quy của nhà nước về việc sớm chất dứt tình trạng lạc hậu thông tin của đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Dự thảo đề cươngVăn kiện Đại hội Đảng lần thứ X. Hà Nội, 2005
2. Văn bản pháp quy về công tác thông tin-tư liệu.- Hà Nội, 1997.
3. Chiến lược tăng cường công tác thông tin KH&CN đến năm 2020. H, 1998.
4. Bell D. The coming of post-industrial Society. New York, 1973
5. Chương trình tối thiểu các ngành “Cơ sở lý luận của thông tin học”, “Các hệ thống và quá trình thông tin”. Moskva, 1991 (tiếng Nga).
6. Khung chương trình đào tạo cử nhân ngành Thông tin học và Quản trị thông tin.- Trường Đại học Dân lập Đông Đô, 1998.
7. Thao Lâm. Một ngành học không thể thiếu trong thời đại ngày nay.- "Khuyến học", 15/04/2001.
8. Neill S.D. Dilemmas in the study of Information: Exploring the boundaries of Information science. New york, 1992.
9. Nguyễn Hữu Hùng. Vấn đề đào tạo cán bộ về khoa học thông tin và quản trị thông tin.- Tạp chí Thông tin & Tư liệu, 1994, số 2.
10. Nguyễn Hữu Hùng. Giáo dục và đào tạo nghề nghiệp thông tin.- Tạp chí Thông tin & Tư liệu, 1996, số 3.
11. Nguyễn Hữu Hùng. Suy nghĩ về nội dung đào tạo đại học ngành thông tin học.- Tạp chí Thông tin & Tư liệu, số 1, 1996.
12. Nguyễn Hữu Hùng. Thông tin học – khoa học của thời đại thông tin. Kỷ yếu khoa học Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2001, tr. 3-18.
13. Nguyen Huu Hung. Developing Undergraduate curriculum in information management: The DongDo University Experience. Malina,Philippines,1998
14. Nguyễn Hữu Hùng. QTTT và CNTT: Hai mảng không thể tách rời của nền kinh tế thông tin. Báo Bưu điện Việt nam, ngày 18- 04- 2005.
15. Moore N.,... A curriculum for an Information Society.- Unesco, 1998.
16. Pemberton J.M, Prentice A. Information Science: the interdisciplinary context. London, 1990.
17. Tiêu chuẩn giáo dục đại học quốc gia. Yêu cầu quốc gia về mức tối thiểu của chương trình đào tạo ngành Thông tin học.Moskva, 1995 (tiếng Nga).
18. Ukhin Ju. Mô hình cán bộ thông tin lý tưởng theo quan điểm phát triển nghề nghiệp.- Moskva, VINITI, 1991 (tiếng Nga).








