Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 10/08/2010 18:43 (GMT+7)

Đặc trưng văn hoá biển của người Việt

Trong văn hoá biển của người Việt, yếu tố biển xen lẫn yếu tố nông nghiệp - đồng bằng và luôn tồn tại những cặp đôi đối lập, song hành với biển.

Cũng như nhiều hiện tượng kinh tế - chính trị, xã hội, văn hoá khác, văn hoá biển của người Việt mang tính hai mặt, đối lập nhau, đan xen vào nhau như trong một cặp phạm trù triết học âm dương. Trong đó, sự đan xen giữa yếu tố văn hoá biển với yếu tố văn hoá nông nghiệp - đồng bằng là tập trung có thể coi là lớn nhất, chi phối đến tâm lý lưỡng phân của người Việt trước biển.

Điều dễ thấy ở môi trường sống vật chất của người Việt là sự đa dạng về sinh thái tự nhiên, trong đó yếu tố đồng bằng cùng với việc phát triển của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước là yếu tố nền tảng; yếu tố biển với sức cuốn hút mạnh mẽ đã làm nên một bình diện thứ hai – khai thác biển, vốn đã là nguồn sống của họ từ rất lâu đời. Như vậy, chính sự phong phú của điều kiện tự nhiên là nguyên nhân gốc đưa đến sự phát triển đa dạng của các hình thái kinh tế phát huy sức mạnh từ tự nhiên, nuôi sống còn người và phát triển cộng đồng.

Bên cạnh đó, một vấn đề hết sức đặc trưng và độc đáo luôn tồn tại trong văn hoá Việt là những cặp song hành, đối lập: Biển - đất liền, biển – núi, biển – rừng, biển - trời, biển – sông. Sự góp mặt của các yếu tố cặp đôi với biển này làm cho văn hoá biển của người Việt có một vẻ riêng, được thể hiện ở khắp các lĩnh vực, kể cả văn hoá vật chất lẫn văn hoá tinh thần. Sự gắn bó, hoà kết của những yếu tố đối lập, trong đó biển giữa vai trò trung tâm cho thấy sự gắn bó thiết thân của người Việt với biển. Và cũng một lần nữa khẳng định tính chất của một nền văn hoá biển không thuần nhất, một sự tồn tại, đan xen của những yếu tố tương phản trong phức thể tự nhiên – văn hoá.

Truyền thống biển trong văn hoá của người Việt là truyền thống “biển cận duyên”.

Khát vọng chinh phục biển cả của nhiều dân tộc có biển khác trên thế giới bộc lộ một cách mạnh mẽ thông qua những hành động mạo hiểm, vượt đại dương như những thuỷ thuỷ Bắc Âu (Vikings thế kỷ VIII – XI) ngang dọc trên sóng nước Bắc Đại Tây Dương, phát hiện ra đảo Island (thế kỷ IX).

Christophoro Colombo sau bốn lần ra đi đã tìm ra châu Mỹ (cuối thế kỷ XV); Magellan với cuộc hải du vòng quanh thế giới (thế kỷ XVI) lưu danh suốt đời với eo biển mang tên người anh hùng của biển… thì người Việt, từ nhiều cứ liệu khác nhau cho thấy, từ xưa, họ đã có những mối quan hệ với biển, nhưng chỉ dừng lại ở biển cận duyên. Đây là một đặc trưng quan trọng trong văn hoá biển của người Việt. “Biển cận duyên” là khái niệm được dùng để phân biệt với “biển đại dương”. Tương ứng với “biển cận duyên” là cách gọi quen thuộc “ra khơi, vào lộng” trong dân gian Việt để chỉ tầm hoạt động khai thác trên biển truyền thống.

Trong những năm gần đây, đã có những bước chuyển mới trong việc khai thác hải sản. Người dân Việt đang chuyển từ quai đê lấn biển, “ngọt hoá” đất bồi để trồng cói, trồng lúa sang “lợ hoá” đất ven biển để nuôi trồng thuỷ sản. Dự án đánh bắt xa bờ đang được xây dựng và thực hiện nhằm vượt ra khỏi phạm vi “khơi” và “lộng”. Bước đầu tiếp cận với biển đại dwong, rất nhiều khó khăn, bất cập đang tồn tại. Khái niệm “vươn ra biển lớn” trở thành phương châm phát triển không chỉ trong phạm vi kinh tế biển, mà còn được sử dụng rộng rãi trong văn hoá, xã hội, kinh tế chung của đất nước trong thời kỳ hội nhập.

Xét theo trục không gian, chất biển từ “nhạt” ở miền Bắc, trở nên “đậm” hơn ở miền Trung và lại ít đi khi vào Nam Bộ. Theo trục thời gian, chất biển ngày càng ‘đậm đặc’ hơn theo tiến trình lịch sử.

Biển đã in dấu trong văn hoá Việt từ thời dựng nước. Vị mặn của biển đã thấm đẫm trong các huyền thoại cũng như sự thật khảo cổ. Tuy nhiên, “chất biển” trong văn hoá Việt ở ba miền lại có sự đậm nhạt khác nhau. Người Việt miền Bắc ít mặn mà với biển nhất khi bên cạnh họ là cánh đồng ruộng nước màu mỡ. Người Việt miền Trung đứng giữa một bên là núi, một bên là biển vì vậy họ đã gắn bó với biển và có cái nhìn hướng biển tích cực hơn. Ở vùng đất Nambộ chằng chịt kênh rạch và mênh mông biển, yếu tố sông nước (sông - biển) làm nên một diện mạo văn hoá đặc thù của cư dân Việt Nam bộ.

Theo dòng lịch sử, mức độ mặn mà của con người với biển từng bước thay đổi theo chiều hướng tích cực. Khi người Việt tiến hành công cuộc “ Nam tiến” lần đầu tiên rầm rộ và qui mô nhất dưới thời xung đột Trịnh - Nguyễn, vùng đất mới làm thay đổi diện mạo văn hoá biển của người Việt. Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, lịch sử cái nhìn về biển của người Việt bước sang trang mới. Thời gian chưa đủ dài để làm nên những chuyển biến đặc biệt, nhưng những đột phá mới của khoa học kỹ thuật nói chung và quan điểm, chính sách của Chính phủ ta đã và đang làm thay đổi căn bản diện mạo văn hoá biển.

Trong thời đại ngày nay, biển ngày càng có vai trò quan trọng, thậm chí có ý nghĩa sống còn đối với dân tộc, quốc gia.

Văn hoá biển của người Việt đã tiếp thu truyền thống biển của các dân tộc khác trong quá trình tiếp xúc và giao lưu.

Văn hoá biển của người Việt không nằm ngoài qui luật chung của sự giao lưu - tiếp biến văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc. Do vậy, cái nhìn hướng biển, độ đậm đặc của hương vị biển trong văn hoá Việt ngày càng cao không chỉ xuất phát từ nguyên nhân nội lực, từ nền tảng truyền thống, mà một phần quan trọng không thể phủ nhận đó là sự tác động của các yếu tố ngoại sinh từ phía các dân cư biển khác trong tiến trình lịch sử. Trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá, văn hoá biển của người Việt đã gặt hái được những giá trị mới, tô đậm thêm truyền thống biển của mình.

Từ thời tiền sử và sơ sử, người Việt chắc chắn đã tiếp thu ý thức về biển của cư dân Nam đảo. Nhưng mối quan hệ giao lưu rõ nhất là với người Chăm khi người Việt tiến vào miền Trung ở thế kỷ XVI và XVII. Người Chăm xưa kia nổi tiêng có cái nhìn hướng biển tích cực, và người Việt đã tiếp thu gần như toàn bộ kỹ thuật đi biển điêu liệu của họ. Ghe bàu là một trong những chứng cứ tiêu biểu cho quá trình tiếp thu đó.

Hoạt động thương mại nhộn nhịp trên biển từ Âu sang Á ở những thế kỷ này cũng đã có những ảnh hưởng khá sâu sắc đến mối quan hệ của người Việt với biển. Việc qua lại buôn bán với tàu nước ngoài: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan và đặc biệt, sự có mặt của các thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc ở cảng thị Hội An đóng vai trò quan trọng trong quá trình thay đổi về tư duy, phương thức và mục đích tiếp cận biển của người Việt.

Ảnh hưởng của phương Tây trong các khía cạnh quân sự và thương mại ở những thế kỷ sau cũng rất đáng kể. Từ cái gốc văn hoá trọng tĩnh, trọng âm, tiếp thu những nét mới trong văn hoá trọng động và đậm chất dương tính của người phương Tây, người Việt ít nhiều đã làm nóng không khí tiếp cận biển của mình.

Trong vài thập kỷ gần đây, biển trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhân loại. Người Việt trong vai trò chủ thể đã và đang gánh vác trọng trách của mình với đất nước, hoà chung với xu thế thế giới: Tiến ra biển.

Biểu tượng biển thể hiện tâm hồn Việt

Một yếu tố văn hoá khi trở thành biểu tượng là nó đã chứa đựng nhân cách hay tinh thần của dân tộc chủ thể. Biểu tượng biển trong văn hoá Việt phản ánh sâu sắc tâm hồn Việt, trong đó tinh thần nhân văn trong ứng xử giữa con người với con người, con người với thiên nhiên biển cả là một biểu hiện bao trùm, tiêu biểu nhất. Trong quan hệ với biển, thể hiện rõ tinh thần tôn trọng, đề cao và bảo vệ. Đây là nét đẹp tâm hồn, văn hoá truyền thống cao quí, làm nên giá trị lớn trong bản sắc văn hoá Việt.

Biển là môi trường để con người sống và lao động, biển cũng là nơi con người gửi gắm tâm tư, tình cảm và khát vọng. Những biểu tượng giản dị, gần gũi và nhân văn chỉ có ở tâm hồn Việt. Biển trở thành triết lý sống, là nơi con người trải nghiệm và hun đúc bản lĩnh Việt, là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận khi con người và biển có chung những rung động thẩm mỹ sâu kín và tinh tế. Biển và văn hoá biển bộc lộ rõ sức mạnh phi thường của dân tộc, một sức tiếp biến văn hoá linh hoạt khi dân tộc hội nhập cùng khu vực và thế giới.

Người Việt có biển và cũng sở hữu một nền văn hoá biển, nhưng tại sao biển vẫn chưa làm thay đổi cuộc sống con người, làm cho con người – dân tộc trở nên giàu có như một số quốc gia khác có biển? Dĩ nhiên, không phải quốc gia nào có biển cũng đều giàu có, nhưng “biết mình, biết ta” là một thế ứng xử xã hội khôn ngoan, cũng là thế ứng xử khoa học, tiến bộ đối với thiên nhiên. Thực chất của nghiên cứu khoa học chính là tìm thấy cái mạnh, cái thiếu sót trong bản chất của vấn đề để thay đổi thực tế vì quyền lợi của đất nước. Biết phát huy những nét ưu việt của văn hoá truyền thống, làm thay đổi khoảng cách giữa những yếu tố truyền thống và hiện đại là việc làm cần thiết khi chúng ta là chủ nhân của biển và đại dương trong công cuộc “vươn ra biển lớn” hôm nay.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.