Công nghệ thông tin và Luật Công nghệ thông tin
1. CNTT là ngành công nghiệp mà giá trị của sản phẩm chủ yếu là hàm lượng công nghệ và tri thức cao sẽ, là ngành công nghiệp mũi nhọn, nhân tố quan trọng đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ứng dụng và phát triển CNTT ở Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, văn bản chỉ đạo, định hướng cho phát triển CNTT của đất nước như: Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 30/3/1991 của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới khẳng định CNTT là phương tiện chủ lực để Việt Nam "đi tắt, đón đầu" nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước công nghiệp tiên tiến. Nghị quyết 49/CP ngày 4/8/1993 của Chính phủ về phát triển công nghệ thông tin đến năm 2000 nhằm thúc đẩy việc ứng dụng CNTT vào mọi lĩnh vực sản xuất, kinh tế và văn hoá của đất nước. Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khẳng định CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục xác định phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin.
Hiện nay, việc đầu tư cho CNTT còn dàn trải và kém hiệu quả. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp CNTT của Việt Nam còn yếu. Việc ứng dụng CNTT trong quản lý, nhất là quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước còn chậm, chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao. Sức cạnh tranh của sản phẩm CNTT chưa cao, mức thâm nhập vào thị trường thế giới không đáng kể. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về tổ chức thực hiện và môi trường pháp lý vì các văn bản quy phạm pháp luật hiện có ở nước ta còn rời rạc, đơn lẻ, chưa đồng bộ nên hoạt động CNTT chưa được điều chỉnh bởi một hệ thống các quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ và chưa đáp ứng được với xu hướng phát triển CNTT trên thế giới.
2. Có hiệu lực từ ngày 1/1/2007, Luật Công nghệ thông tin sẽ là hành lang pháp lý cơ bản để điều chỉnh các hoạt động ứng dụng và phát triển CNTT, tạo điều kiện để góp phần phát triển kinh tế tri thức. Việc ban hành Luật cũng nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập, thực hiện các cam kết quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO. Nội dung của Luật Công nghệ thông tin gồm 6 chương, 79 điều, bao gồm những nét cơ bản sau:
Về những quy định chung, quy định những vấn đề về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, áp dụng luật, giải thích từ ngữ, chính sách của nhà nước về CNTT, nội dung quản lý nhà nước cũng như trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về CNTT, thanh tra về CNTT, hội, hiệp hội CNTT và các hành vi bị nghiêm cấm. Các hành vi bị nghiêm cấm tập trung vào một số điểm: nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân; kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc; tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những bí mật khác đã được pháp luật quy định; xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân; quảng cáo, tuyên truyền hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục cấm đã được pháp luật quy định; xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động công nghệ thông tin; sản xuất, lưu hành sản phẩm công nghệ thông tin trái pháp luật; giả mạo trang thông tin điện tử của tổ chức, cá nhân khác; tạo đường dẫn trái phép đối với tên miền của tổ chức, cá nhân sử dụng hợp pháp tên miền đó.
Phạm vi điều chỉnh của Luật tập trung vào các hoạt động ứng dụng và phát triển CNTT, đây là những vấn đề cốt lõi, đặc biệt quan trọng để phát triển CNTT.
Luật Công nghệ thông tin cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tự do ứng dụng CNTT trong tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, hoạt động phòng chống lụt bão, thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, văn hóa, giáo dục, y tế, … Luật cũng quy định về các trường hợp ứng dụng CNTT được ưu tiên hoặc các trường hợp ứng dụng cần hạn chế. Luật cũng quy định nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý, giám sát việc ứng dụng CNTT nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức, cá nhân.
Khuyến khích nghiên cứu phát triển CNTT, Luật đã quy định về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, dịch vụ CNTT. Từ đó khuyến khích tổ chức, cá nhân nghiên cứu - phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ thông tin nhằm phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Luật khuyến khích các tổ chức, cá nhân thành lập cơ sở đào tạo nhân lực công nghệ thông tin theo quy định của pháp luật và được hưởng ưu đãi trong hoạt động đào tạo về công nghệ thông tin tương đương với doanh nghiệp sản xuất phần mềm. Nhà nước có chính sách hỗ trợ giáo viên, sinh viên và học sinh trong hệ thống giáo dục quốc dân truy nhập Internet tại các cơ sở giáo dục.
Nhằm thu hút các nguồn lực trong xã hội phát triển cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu ứng dụng và phát triển CNTT Luật có những quy định pháp lý thu hút đầu tư của nhà nước, tổ chức, cá nhân về nguyên tắc và nội dung hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNTT, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và hỗ trợ người sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNTT.
Về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm, Luật khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp về công nghệ thông tin thông qua hòa giải; trong trường hợp các bên không hòa giải được thì giải quyết theo quy định của pháp luật. Hình thức giải quyết tranh chấp về đăng ký, sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam “.vn”, được giải quyết theo các hình thức: Thông qua thương lượng, hòa giải; thông qua trọng tài; khởi kiện tại Tòa án. Luật cũng nêu rõ, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về công nghệ thông tin thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, bồi thường hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng hành lang pháp lý đảm bảo cho công nghệ thông tin phát triển ở nước ta đã rộng mở, thông thoáng.








