Có linh tính hay không?
Nhưng muốn trả lời câu hỏi có “linh tính” hay không và muốn giải thích nó, trước hết chúng ta hãy xem xét thế nào là “linh tính” đã.
Muốn đưa ra một định nghĩa khoa học vốn đã nhuốm nhiều màu sắc mê tín dị đoan như hiện tượng “linh tính”, thực quả là khó.
Theo quan niệm phổ biến trong đời sống, nguwofi ta cho rằng “linh tính” là thứ tinh thần linh thiêng, huyền bí nào đó nằm trong bản thân ta, nhưng không thuộc quyền điều khiển của ta, có tác dụng báo trước những điều sắp xảy ra đến với chúng ta, hoặc báo những điều liên quan mật thiết đến ta xảy ra ở cách xa mà ta chưa biết được bằng phương tiện thông tin thông thường khác (như kể chuyện, báo chí, thư từ, điện thoại, điện tín, vô tuyến điện…). Nếu hiểu “linh tính” như vậy, thì nó bao gồm nhiều hiện tượng khác nhau, đòii hỏi những cách giải thích dựa trên những nguyên tắc khác nhau. Dưới đây chúng tôi xin đề cập đến một số trong đó.
1. Trí nhớ bị bóp méo!
Trước hết chúng tôi xin gạt ra ngòi phạm vi bài này những câu chuyện bịa đặt của những kẻ cố tình gieo rắc mê tín. Nhưng từ những kẻ đó ra, trong nhân dân ta, nhất là ở nông thôn và miền núi, vẫn có nhiều người tin vào những “điềm báo”, những “tiên triệu”, đại loại như: Nằm mê thấy rungj răng là sắp có việc tang, thấy cháy nhà là sắp có điềm lành, ra ngõ gặp gái thì sẽ “xúi quẩy”, hắt hơi là có người nhắc, máy mắt bên trái là sắp được mời ăn, bên phải là sắp cãi nhau… Những người này thành thực kể cho ta nghe vô số sự việc, để chứng minh rằng những điểm đó đã ứng như thế nào (!).
Một nhà tâm lý học đã thử thống kê về hiện tượng tin rằng “gặp mèo đen” sẽ xúi quẩy, phổ biến ở các nước châu Âu, và thấy rằng trong 10 lần có điềm báo như thế, nhiều lắm cũng chỉ có một, hai lần ngẫu nhiên có điều không may xảy ra (sự ngẫu nhiên này cũng là việc bình thường thôi), còn những lần khác, thì hoặc chẳng thấy gì, hoặc xảy ra những điều trái ngược với điềm báo (chuyện vui, công việc kết quả), tuy thế những người mê tín này chỉ nhớ có một, hai trường hợp ngẫu nhiên đúng, hoặc giải thích gò ép cho thành đúng (trong một việc có phần thành công, có phần thất bại, thì chỉ nhìn thấy khía cạnh thất bại) và quên mất những trường hợp khác. Đó là quy luật “tính lựa chọn của trí nhớ”, chỉ nhớ những điều mình mong ước, mình tin, mình hứng thú… Do nhớ như vậy, họ lại càng tin hơn, và càng tin hơn thì trí nhớ lại càng lựa chọn méo mó, phiến diện và cứ như thế mãi. Ngoài ra cũng phải thêm rằng đến một mức độ nào đó rồi chính vì niềm tin có sẵn, khi gặp “điềm lành” thì con người thêm hào hứng, phấn khởi, khi gặp “điềm gở” thì mất hết tự tin và điều đó cũng góp phần quyết định kết quả may mắn hoặc “xúi quẩy” của công việc. Chúng tôi nghĩ rằng sự phân tích tâm lý này cũng có thể giải thích được mọi hiện tượng “điềm báo” của những người mê tín nói trên.
Tóm lại, những hiện tượng “linh tính” thuộc loại này, mặc dầu nhiều người thành thực tin là có, nhưng nó không có thực. Tâm lý học thấy rằng trong trường hợp đó, không có sự báo trước nào cả, mà chẳng qua vì đã tin, nên người ta coi một hiện tượng nào đó là cái “điềm” và sau đó nhận thức cũng như hành động của mình bị bóp méo theo đúng cái điều mà mình tin là nó “báo”. Còn vấn đề từ đâu lại sinh ra niềm tin như thế và tại sao cùng một hình thức mê tín giống nhau mà mỗi dân tộc, mỗi địa phương lại có những niềm tin cụ thể khác nhau, thì đó lại là đối tượng nghiên cứu của phong tục học, của lịch sử tư tưởng của các dân tộc, mà ở đây chúng tôi không đề cập tới.
2. Dưới “ngưỡng” của ý thức:
Tuy nhiên, trong số những “điềm báo” cũng có một loại có thực. Đó là trường hợp những giấc mơ “báo trước” cho con người một số bệnh tật trong cơ thể sắp phát ra, hoặc những sự việc chưa nhận thức được vì lúc tỉnh, những kích thích tạo nên “điềm báo” đó tuy nằm trên ngưỡng cảm giác, nhưng chưa đủ khuếch tán lên hệ thống tín hiệu thứ hai, tức là còn dưới ngưỡng ý thức, nên con người chưa nhận thấy. Khi có một điều kiện thuận lợi nào đó như lúc ngủ mơ, lúc đầu óc rất yên tĩnh, thì chúng ta ý thức như là một thứ “linh tính” mà chúng tôi đã dẫn chứng cụ thể trong phần “Bí mật của các loại giấc mơ”.
3. Giác quan thứ sáu có thật hay không?
Có một hiện tượng “linh tính” khá phức tạp hơn mà trước đây trong tâm lý học duy tâm vẫn gọi là “trực giác”, hoặc “quan năng thứ 6” (six-ième-sens). Lấy một ví dụ: Một ngư dân đi nghề thường quyết định buông lưới ở chỗ nào đó một cách ngẫu nhiên, nhưng lại đạt kết quả tốt. Bản thân người này cũng không giải thích được tại sao, họ chỉ nói rằng họ có “cảm giác” là chỗ đó có cá và quyết định buông lưới, thế thôi! Những người khác liền giải thích rằng đó là do “vận may”, do “linh tính” mách bảo.
Nhưng trong một số thí nghiệm của các nhà tâm lý học và sinh lý học Liên Xô (L.I. Kotlarepxki, V.N. Miaxiep, I.I. Kôrootkin, A.A Knhazeva, V.A. Koojjeonhicop, A.M. Karuxeva, V.K. Fadeva, L.A Chixtovich và đặc biệt là D.N. Uznatze và G.V. Gersunhi), cũng đã gây được những hiện tượng tương tự. Người bị thí nghiệm phản ứng đúng nhiều lần trước những tình huống nhất định nhưng không trả lời được tại sao lúc đó lại có phản ứng vậy. Các nhà tâm lý học gọi thí nghiệm này là sự thành lập những phản xạ có điều kiện với những phức hợp kích thích dưới ngưỡng cửa ý thức.
Thí dụ như thí nghiệm đơn giản của Kotlarepxki và Fadeva thành một phản xạ cử động (bóp quả bóng) với một phức hợp những kích thích ánh sáng trên và dưới ngưỡng ý thức của cảm giác (một khung sáng lục mà người bị thí nghiệm thấy rõ và sự tăng sáng rất ít của phòng thí nghiệm mà người đó không nhận thấy). Sau đó chỉ dùng kích thích dưới ngưỡng cũng đủ gây phản ứng, nhưng vì cường độ rất yếu của nó, nên mặc dầu người đó có cảm giác và vì thế mà có hành động phản xạ (bóp quả bóng), nhưng người này không nhận thấy có kích thích, không có ý thức rằng mình có tri giác thấy nó, cho nên không nói được tại sao mình lại có phản ứng. Những tài liệu của các nhà tâm lý học kể trên “chứng tỏ rằng không phải bất cứ việc xây dựng một phản xạ có điều kiện nào đồng thời cũng có sự có ý thức về kích thích có điều kiện”. những nhà khoa học Liên Xô nói trên và nhiều nhà sinh lý học khác ở một số nước khác trên thế giới (có thể kể l.B, Peerrenman, Xaimôn, Voonpe, Foren, Extegas, Maxưmôtô…) cũng đã tiến hành những thí nghiệm phức tạp muôn màu muôn vẻ nhưng về nguyên tắc thì tương tự với thí nghiệm kể trên. Phân tích những thí nghiệm đó, nhà tâm lý học Liên Xô F.V. Batxin, đã đi đến một số kết luận tương tự với ý kiến sau đây của E.V. Khrôkhoova. Ông cho rằng những kết quả của thí nghiệm này ít ra cũng có thể cho phép ta rút ra một kết luận quan trọng về mặt nguyên tắc là những kích thích phức tạp các loại khác nhau có thể tác động vào con người như là những tín hiệu và gây nên những phản ứng đáp lại mà không nhất thiết rằng:
a. Kích thích tác động đó.
b. Lý do thúc đẩy ta thực hiện phản ứng và thậm chí:
c. Sự thực hiện chính các phản ứng đó được chúng ta ý thức một cách rõ ràng.
Chính người ngư dân “may mắn” trên đây cũng đã hành động theo những tín hiệu dưới ngưỡng ý thức như vậy, mà anh ta đã tiếp nhận được ở địa điểm nhiều cá nọ. Nói một cách khác, cái cảm giác mơ hồ, cái quyết định có vẻ như ngẫu nhiên đã đư anh ta đến hành động buông lưới, chính là mặt tâm lý của một phản xạ vận động có điều kiện mà kích thích là những thuộc tính nào đó của địa điểm có cá, mà, hoặc là có cường độ quá yếu, hoặc là vừa yếu vừa tản mạn khiến người ngư dân tuy có tiếp nhận nhưng không có ý thức rằng mình có tri giác, hoặc không tập hợp được chúng theo một quan hệ nhất định nào đó để có thể xem là một dấu hiệu dựa vào đó mà phân tích, luận đoán.
Những hiện tượng như vậy cũng có thể gặp ở một đôi người thợ săn trong khi định ngày đi săn, người nông dân khi phán đoán về thời vụ, thậm chí ở một vài người thầy thuốc khi dự đoán về tương lai người bệnh, hoặc của người công an khi theo dõi một kẻ gian… nói chung là những hiện tượng mà trong cuộc sống ta vẫn coi là cái “thính nhà nghề” (Flair). Nhưng tựu trung lại, cái “thính nhà nghề”, cái “trực giác”, cái “quan năng thứ 6” này mà người mê tín đều liệt vào “linh tính” cũng chỉ là những phản xạ có điều kiện xây dựng trên sự tri giác những kích thích dưới ngưỡng của ý thức, chứ không có gì là huyền bí cả.
4. Cái gọi là vô thức:
Trước khi bàn sang một loại hiện tượng “linh tính” khác cũng cần nói thêm một điểm liên quan đến cả hai loại hiện tượng trên đây. Như chúng ta đã thấy cả hai đều thuộc về những hiện tượng tâm lý không được ý thức, đều là những hiện tượng chẳng những có thực mà còn có thể khá phổ biến nữa. Tất nhiên có người đặt câu hỏi “Chẳng lẽ trong đời sống tâm lý con người cũng còn những hiện tượng không ý thức, thậm chí khá phổ biến nữa hay sao?”. Trước đây trong tâm lý học Xô – viết nói chung cũng có thiên hướng chỉ thấy vai trò quan trọng của những hiện tượng không ý thức trong đời sống tâm lý của con người. Tuy vậy trong tình hình đó vẫn có những nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này, đặc biệt có D.N Uznatze, nhà tâm lý học nổi tiếng của nước Cộng hòa Gruzi, người đề xướng ra học thuyết “tâm thế” (Yetanobka), đã thấy vai trò của những hiện tượng không ý thức. Ông viết: “Hoạt động của con người có thể diễn ra mà không có sự tham gia của những chức năng tâm lý riêng rẽ của con người, xảy ra bên ngoài những hành động nhận thức, xúc cảm, ý chí của người đó, nghĩa là có thể diễn ra trên cơ sở của tâm thế, cái này không biểu hiện một chức năng tâm lý riêng rẽ nào, mà nó biểu hiện trạng thái của toàn bộ chủ thể”. Gần đây những công cuộc nghiên cứu chứng tỏ rằng những hiện tượng tâm lý không kèm theo ý thức như vậy khá phổ biến trong đời sống tâm lý con người (lấy một ví dụ mà ai cũng biết là thói quen), nó không đối lập với ý thức, mà trái lại giữa nó và ý thức có một mối quan hệ chuyển hóa biện chứng, đảm bảo cho con người phản ánh và thích ứng tốt nhất với hiện thực khách quan. Những kết quả nghiên cứu đó chẳng những giúp chúng ta hiểu được một số hiện tượng tâm lý có vẻ huyền bí mà từ trước tới nay chúng ta vẫn làm ngơ và để chúng làm mồi cho mê tín (nhưng đây chỉ là tác dụng thứ yếu). Song quan trọng hơn cả là những cuộc nghiên cứu này giúp chúng ta hiểu rõ về ý thức, do đó có thể mở rộng, nâng cao và hoàn thiện đời sống ý thức của những con người đang xây dựng một cách có ý thức một thế giới mới.
Điều đáng chú ý là những kết luận gần đây lại rất phù hợp với ý kiến của chính Y. P. Paplốp về vấn đề này: “Chúng ta biết rõ rằng trong một chừng mực nào đó, đời sống tâm lý, đời sống tinh thần, được tạo thành bởi phần ý thức và phần không ý thức xen lẫn với nhau”.