CNTT với việc phát triển bền vững và hội nhập
1. Nguồn nhân lực chất lượng cao - Sức mạnh mới của tổ chức, doanh nghiệp
Tài sản có giá trị nhất của một công ty ở xã hội công nghiệp là thiết bị sản xuất. Trong khi đó, sang xã hội tri thức, mọi việc đã thay đổi. Đối với bất kỳ tổ chức nào – kinh doanh hay phi kinh doanh - người lao động tri thức và năng suất lao động của họ mới là thứ giá trị nhất.
Cách tiếp cận của Taylor xuất phát từ lao động chân tay trong sản xuất công nghiệp và chỉ áp dụng trong phạm vi đó mà thôi. Điều này vẫn sẽ là nguyên tắc tổ chức tại các nước thuộc “thế giới thứ 3”, khi mà ở đó lao động chân tay, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, vẫn là khu vực tăng trưởng chủ yếu trong nền kinh tế. ở những nước này, lực lượng lao động trẻ với trình độ văn hoá thấp và không có tay nghề vẫn tiếp tục tăng.
Tuy nhiên, tại các nước phát triển thì thách thức chủ yếu không còn là vấn đề tăng năng suất lao động chân tay nữa, mà là vấn đề tăng năng suất của lao động tri thức. Lao động tri thức đang nhanh chóng trở thành bộ phận lớn nhất của lực lượng lao động tại các nước này. Bộ lao động Anh, năm 1994 chỉ tuyển không đến 20% lực lượng lao động và con số này tiếp tục giảm. Khoảng 2/3 lao động Mỹ ngày nay làm việc trong bộ phận dịch vụ. Viện nghiên cứu lao động Anh ước tính vào đầu thế kỷ 21, gần 30% dân số sẽ ở trong “những dịch vụ dữ liệu”, thu thập, xử lý, khôi phục hay phân tích thông tin. Các nước khác tỉ lệ này đang tăng dần lên nhanh chóng. Năng suất lao động của lực lượng lao động tri thức sẽ ngày càng trở thành yếu tố quyết định sự phồn vinh và tồn tại của nền kinh tế các nước phát triển trong tương lai.
2. CNTT song hành với các chức năng quản lý
Các tổ chức theo mô hình cũ (có thể gọi là tổ chức cổ điển) được thiết kế theo hướng tồn tại lâu dài. Do vậy mà tất cả các tổ chức đang tồn tại bất luận là doanh nghiệp hay trường đại học, nhà dưỡng lão, bệnh viện... đều cần hết sức nỗ lực mới có thể tiếp thu sự thay đổi và có khả năng thay đổi. Nhiều nhà nghiên cứu về lý thuyết tổ chức và quản lý hiện đại phương tây cho rằng, tổ chức trong thời đại thông tin sẽ xuất hiện với tất cả những hình dạng, kích cỡ – lớn hay nhỏ, nhiều hay ít. Một đơn vị tổ chức hiện đại bất kể là doanh nghiệp, dịch vụ công, trường học hay đơn vị quân đội đều cần đến cơ cấu tổ chức, giống như mọi tổ chức sinh học lớn hơn tế bào đều cần đến cấu trúc. Cũng như các tổ chức sinh học đa dạng về cấu trúc, các tổ chức xã hội cũng có nhiều cơ cấu tổ chức khác nhau.
Tuổi thọ của một tổ chức thường không dài bằng cuộc sống của lao động tri thức. Thật vậy, một người tuổi thọ trung bình là 75, họ bắt đầu làm việc ở tuổi 30 (kéo dài thời gian ở trường đại học để lấy bằng tiến sĩ chẳng hạn), như thế họ có 45 năm làm việc. Trong khi đó, tuổi thọ trung bình của các tổ chức là 30 năm (đối với doanh nghiệp thành công), thời đại có những biến động lớn và nhanh như hiện nay có thể còn ít hơn. Ngay cả đối với những tổ chức mà thông thường có thời gian tồn tại lâu, nếu không nói là vĩnh cửu – các trường phổ thông, trường đại học, bệnh viện, cơ quan chính phủ – thì cũng không tránh khỏi những thay đổi nhanh chóng trong thời đại hiện nay. Để duy trì sự phát triển ổn định và bền vững, buộc các tổ chức phải có những thay đổi về cấu trúc, chức năng nhiệm vụ, yêu cầu đối với kiến thức, tiêu chuẩn tuyển dụng v.v... Do đó, những người lao động, đặc biệt là lao động tri thức cần phải được trang bị nhiều kiến thức, kỹ năng công việc.
Trong xã hội thông tin, hoạt động quản lý ngày càng ngắn chặt với các phương tiện công nghệ thông tin (CNTT) hiện đại. Chỉ có sự trợ giúp của các thiết bị này mới đảm bảo cho họ có phản ứng kịp thời với mọi thay đổi của môi trường xung quanh, giúp họ có những quyết định đúng đắn trong điều hành hoạt động của tổ chức. Vì thế, ngoài sự linh hoạt trước những thay đổi, nhà quản lý cần phải chủ động tiếp cận, làm chủ công nghệ mới. Trong xã hội thông tin, nhà quản lý sẽ là người khai thác dữ liệu, chuyển chúng sang thông tin – vì đó là cơ sở để ra quyết định.
3. Một số rào cản trong việc triển khai ứng dụng CNTT
Tầm quan trọng của CNTT và truyền thông đối với sự phát triển của các doanh nghiệp với hệ quả là sự thịnh vượng của các quốc gia không còn là vấn đề tranh cãi. Ứng dụng CNTT do vậy trở thành một phần không thể thiếu trong các chiến lược cạnh tranh của các tổ chức, doanh nghiệp và quốc gia.
Ở Việt Nam, những năm gần đây, số người sử dụng máy tính, truy cập Internet, số trang web của doanh nghiệp, cơ quan chính phủ tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, hầu hết các ứng dụng CNTT mới chỉ chú trọng đến việc tìm kiếm thông tin, trao đổi e-mail, soạn thảo văn bản. Trong khi các ứng dụng cao cấp có tính đột phá, cải thiện năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp hay chính phủ như các hệ thống thông tin (HTTT) quản lý hoặc thương mại điện tử (TMĐT) thì chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù có nhiều dự án, chương trình phát triển TMĐT được triển khai từ những năm đầu thiên niên kỷ 21, đã có nhiều sàn giao dịch TMĐT ra đời; nhưng đến nay các doanh nghiệp vẫn chưa mấy mặn mà tham gia TMĐT vì nhiều lý do: văn hoá mạng, nguồn nhân lực và nhất là hành lang pháp lý về thương mại điện tử còn chưa hoàn thiện.
Trên thế giới, về vấn đề này, các doanh nghiệp cũng như chính phủ ở một số quốc gia đang phát triển hay các nước công nghiệp hoá mới như Trung Quốc, hay các nước ASEAN đều có những hạn chế giống nhau trong ứng dụng CNTT vào quản lý. Năm 1998, Tập đoàn CITIC (China International Trust and Investment Corp.) - một trong những doanh nghiệp nhà nước lớn nhất của Trung Quốc - thuê công ty tư vấn danh tiếng McKinsey với giá 1 triệu USD để phát triển một HTTT quản trị rủi ro. Khi ứng dụng hệ thống vào đánh giá rủi ro của từng khách hàng, một vấn đề nảy sinh: hầu hết khách hàng của CITIC không đạt tiêu chuẩn để cho vay. Những khách hàng được hệ thống đánh giá là rất rủi ro lại là những khách hàng thân thuộc có quá khứ thanh toán các khoản nợ rất tốt (giải thích của CITIC: các khách hàng thanh toán đúng hạn do họ có quan hệ tốt với CITIC, chứ không phải do công việc làm ăn của họ thuận lợi - hiện tượng rất phổ biến trong xã hội Trung Quốc và cả Việt Nam). Ngược lại những khách hàng được hệ thống đánh giá là rủi ro thấp, theo CITIC lại là những khách hàng rất đáng ngờ - họ có những chứng nhận về tài chính rất tốt có được từ sự trợ giúp, quan hệ bên trong với các công ty kế toán và kiểm toán.
Toàn bộ các chi nhánh của CITIC bối rối, không biết nên vận hành theo cách thức truyền thống vẫn làm hay theo máy tính. Và cuối cùng các lãnh đạo cao cấp của CITIC phải giải thích với nhân viên rằng hệ thống quản trị rủi ro của McKinsey là cái mà công ty sẽ hướng đến trong tương lai, còn bây giờ thì tất cả quay về phương pháp truyền thống.
CNTT có thể giúp các tổ chức, doanh nghiệp và đặc biệt là hệ thống cơ quan quản lý nhà nước giảm lãng phí thời gian và tiền bạc, giám chi phí di chuyển và in ấn công văn giấy tờ do phải tổ chức hội họp và giao ban theo phương pháp truyền thống. Ứng dụng Công nghệ Hội nghị - Truyền hình, giao ban trực tuyến sẽ khắc phục được các hạn chế của việc hội họp theo phương pháp cổ điển - Triệu tập về ngồi cùng một địa điểm để “họp mặt”. Đặc biệt, CNTT còn giúp nâng cao hiệu quả trao đổi thông tin và ra quyết định, các việc này có thể được thực hiện một cách nhanh chóng, tỷ lệ với tốc độ truyền thông tin.
Một số nhà quan sát thế giới hiện nay không dùng văn hoá mà sử dụng trình độ phát triển kinh tế - xã hội để giải thích các hiện tượng này. Theo đó, do khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội mà các quốc gia chia thành hai nhóm: nhóm vận hành dựa trên pháp luật và nhóm vận hành dựa trên quan hệ.
Ở nhóm 1 là các quốc gia có hệ thống pháp luật đầy đủ, minh bạch, công khai, cụ thể hoá, văn bản hoá và truyền thông rộng rãi. Các quốc gia này được vận hành chủ yếu dựa trên HTTT công bao gồm các thông tin vĩ mô và vi mô đáng tin cậy, được kiểm chứng bởi các định chế độc lập trên thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường vận hành theo pháp luật không chỉ giới hạn trong việc xây dựng - thực thi pháp luật, tạo ra những nhà sản xuất, người bán hàng và người tiêu dùng, mà còn phải tạo ra những định chế độc lập như các công ty kiểm toán, đánh giá rủi ro, tín dụng, các công ty đăng kiểm, các tổ chức khảo thí, các tổ chức đánh giá xếp loại doanh nghiệp, trường học, bệnh viện...
Ở các quốc gia nhóm này, các định chế xã hội rất phát triển và là một thành phần quan trọng của xã hội, cung cấp và kiểm chứng các thông tin vi mô và vĩ mô cho toàn thể xã hội. Chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ chức cũng như người tiêu dùng dựa vào các HTTT công này để ra các quyết định quản lý, kinh doanh và tiêu dùng. Các giao dịch kinh doanh, trao đổi giữa các thành viên của xã hội đều dựa trên kết quả phân tích khách quan các thông tin được cung cấp từ hệ thống.
Chẳng hạn để quyết định cho vay, hay cấp tín dụng cho một khách hàng, các ngân hàng sẽ căn cứ vào các thông tin trong quá khứ đã được lưu trữ. Hay để chọn một trường đại học, các sinh viên sẽ căn cứ vào các thông tin xếp hạng của các tổ chức như US News. Còn các trường lại dựa vào kết quả thi SAT, TOEFL, GRE của từng sinh viên do ETS cung cấp để chọn sinh viên.
Điều này lý giải tại sao mô hình quản lý của các quốc gia phát triển thường phân quyền, dựa vào các nguồn thông tin công (khách quan) để ra quyết định, và do vậy việc ứng dụng CNTT trong quản lý là tối quan trọng. Quay lại câu chuyện của Tập đoàn CITIC của Trung Quốc kể trên, lý do chính dẫn đến sự thất bại trong việc ứng dụng HTTT do McKinsey tư vấn cũng chính là ở sự thiếu vắng của các HTTT công để đánh giá các doanh nghiệp, người tiêu dùng một cách đáng tin cậy (như kiểm toán, kế toán, xếp hạng, đánh giá rủi ro).
Các quốc gia nhóm 2 có chung đặc điểm là trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, hệ thống pháp lý còn lỏng lẻo, năng lực quản lý xã hội còn hạn chế, hệ thống các định chế xã hội và thông tin công còn hết sức thô sơ. Do không có các “trọng tài” đáng tin cậy cũng như các thông tin công được kiểm chứng, các đối thủ trên thị trường phải tự mình đánh giá các đối tác trong từng giao dịch, và để giảm rủi ro cũng như tiếp cận được các nguồn thông tin, họ phải xây dựng các mối quan hệ lâu dài với một số đối tác.
Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là một số doanh nghiệp có một “lợi thế cạnh tranh” hết sức đặc thù là “độc quyền thông tin”, hay đúng hơn là độc quyền tiếp cận thông tin (do quan hệ) và do vậy ứng dụng CNTT trong quản lý đối với các doanh nghiệp này khó có thể được sử dụng có hiệu quả.
Những rào cản đối với việc ứng dụng CNTT, HTTT trong hoạt động quản lý, sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp đang là thách thức cho sự phát triển và hội nhập.








