Chiến lược Chuỗi Ngọc Trai và việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông
Trong những năm gần đây Trung Quốc tiếp tục có những hành động xâm phạm nghiêm trọng đến vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và của các nước khác trên Biển Đông. Trung Quốc đơn phương tuyên bố một đường phân định ranh giới trên biển không có cơ sở pháp lý và chiếm gần hết Biển Đông. Trung Quốc đơn phương cho các tàu hải giám và kiểm ngư, những tàu thuyền quân sự và cảnh sát trá hình, vào những khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và các nước khác.
Sự kiện gần đây nhất là một đội tàu hải giám đã đi vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở vị trí (vĩ độ, kinh độ) nằm cách đường cơ sở của Việt Nam chưa tới 120 hải lý, phá hoại và cản trở hoạt động thăm dò địa chấn của Việt Nam. Hành động này vi phạm nghiêm trọng trọng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982) và Hiến chương liên hợp quốc.
Sự việc không chỉ ở tầm Biển Đông sát bên cạnh yết hầu kinh tế và quân sự của Việt Nam!
Sự việc nằm ở chiến lược Chuỗi Ngọc Trai đầy toan tính của Trung Quốc nhằm gia tăng sức mạnh năng lượng, kinh tế và quân sự của mình.
Không gian chiến lược này sẽ khởi đầu từ đảo Hải Nam của Trung Quốc, tiến ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa), và một số đảo tại quần đảo Trường Sa (của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm), xuống kênh đào Kra, ôm lấy Myanmar và dừng bước tại cảng Karachi của Pakistan. Con đường trên biển này sẽ bảo đảm về mặt tiếp liệu, vận tải nhiên liệu, sản phẩm và quân đội khi cần thiết.
![]() |
Những gì đang diễn ra liên quan Trung Quốc?
Những bất ổn liên tục xảy ra tại Trung Quốc từ cuối tháng tư 2011 đến nay như cuộc đình công năm ngày của các tài xế xe tải tại Thượng hải, tiếp theo đó là các vụ đánh bom tại Giang Tây và những cuộc biểu tình tại Nội Mông.
Thời gian đó, Trung Quốc liên tục cử những phái đoàn quân sự đi ra nước ngoài trong tháng 5 năm 2011.
Ngày 26/05/2011, Trung Quốc ngang ngược cắt đứt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 ngày 26/05/2011 mặc dầu đã có sự phản đối của tàu biên phòng hộ tống và chính tàu Bình Minh 02 thuộc PVN.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố rằng họ chỉ hoạt động trên vùng biển Trung Quốc một cách ngụy biện. Vậy chúng ta phải chỉ rõ cho nhân dân toàn thế giới thấy rằng họ đã nói không đúng sự thật bằng các bản đồ và các bài viết của chúng ta.
Vào ngày 31/05/2011, 3 tàu quân sự Trung Quốc đã nổ sung uy hiếp, ngăn cản 4 tàu cá của tỉnh Phú Yên trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng tỉnh Phú Yên, Việt Nam đã đề nghị Bộ Ngoại giao can thiệp.
Những hành động này là một hành động có tính toán của Trung Quốc để vừa giảm nhiệt trong nước vừa phục vụ ý đồ tiến xuống phía nam để phục vụ cho chiến lược Chuỗi Ngọc Trai nhằm khống chế cả Biển Đông và Ấn Độ Dương.
Do những nhu cầu bức thiết trên, Trung Quốc đã tạm thời hy sinh hình ảnh phát triển hòa bình để lấn xuống biển Đông một cách mạnh bạo. Không phải Trung Quốc không biết rằng họ đang đứng trên luật pháp quốc tế, nhưng họ đang tận dụng thời cơ hiện tại bên ngoài và giải quyết những bất ổn nội bộ để đi nhanh hơn trên con đường bá quyền của mình.
Trung Quốc liên tục tác động đến Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar để phá vỡ nguyên tắc đồng thuận phát ngôn của ASEAN, mặt khác luôn muốn trói các nước trong tranh chấp biển Đông vào "khung giải quyết" là "thương lượng song phương" cho một vấn đề quốc tế. Trước hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc - ASEAN vào tháng 10/2009 tại Huahin (Thailand), bà Tiết Hán Cần, đại sứ Trung Quốc tại ASEAN đã phát biểu: "Trung Quốc cho rằng đây là bất đồng giữa Trung Quốc và các nước riêng rẽ xung quanh Biển Đông, chứ không phải giữa Trung Quốc và Asean...Và bà cũng nói thêm: "Cuộc họp này của ASEAN phải là trong khuôn khổ hợp tác, chứ không phải là để tranh cãi". Đây là động tác hạn chế người khác nói, còn chính Trung Quốc thì vừa nói vừa hành động thô bạo.
Sau tuyên bố tại Hội nghị ARF tháng 7/2010 của Ngoại trưởng H. Clinton, Trung Quốc đã phản ứng quyết liệt. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì cho rằng phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ là "Đưa vấn đề song phương thành vấn đề quốc tế, hoặc đa phương sẽ chỉ làm trầm trọng thêm tình hình và gây thêm khó khăn trong việc giải quyết vấn đề này".Đây chỉ là một ngụy biện nhằm bẻ đũa từng chiếc.
Tháng 11/2010, Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông lần 2, Hội thảo này là cơ hội cho Việt Nam để tìm kiếm những tiếng nói đa phương cho việc giải quyết tranh chấp. Trong Hội nghị này Trung Quốc đã làm giảm nhẹ tuyên bố "lợi ích cốt lõi" của mình. Tuy nhiên, việc không khẳng định và không phủ nhận tuyên bố vô lý này cho thấy ASEAN, Ấn Độ và thế giới cần cảnh giác cao hơn nữa.
Như tác giả Dương Danh Huy đã nhận xét, đây không phải hành động đầu tiên và không phải cuối cùng tại biển Đông. Chúng tôi bổ sung, những hành động này sẽ không chỉ xảy ra trên biển Đông và biển Nhật Bản mà sẽ sắp sửa xảy ra tại Ấn Độ Dương và các vùng nước khác trong tương lai rất gần.
Ngẫu nhiên không may mắn cho Việt Nam là ở ngay tâm điểm của chiến lược Chuỗi Ngọc Trai của Trung Quốc, tuy nhiên nếu chúng ta biết vận động sâu rộng đến nhân dân và chính phủ các nước ASEAN, Ấn Độ, Bangladesh và cả Pakistan, Afganistan, thì nguy cơ có thể sẽ biến thành cơ hội.
Việt Nam chúng ta sẽ cô độc nếu chỉ dừng sự đấu tranh tại biển Đông mà không mở rộng sang các nước vẫn đang nắm tình hình nhưng trù trừ không lên tiếng như ASEAN và cả Mỹ và Ấn Độ.
Những biện pháp bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông
Về Ngoại Giao
Ngoại giao nhân dân: Phổ biến thông tin về sự ngang ngược của Trung Quốc đến tất cả các tầng lớp nhân dân, hội đoàn dân sự trong một chiến lược lâu dài bằng tiếng Việt và nhiều thứ tiếng khác. Những hoạt động khoa học, văn hóa thể thao của Việt Nam tại các nơi trên thế giới sẽ được bổ sung nội dung bị ức hiếp của ngư dân và các công ty Việt Nam. Trong đó nêu bật thái độ bất chấp UNCLOS 1982 và DOC 2002 của Trung Quốc.
Không giới hạn công việc bảo vệ chủ quyền quốc gia chỉ tại trong nước mà cần phải có một sự vận động sâu rộng có tầm mức quốc tế. Không giới hạn việc tác động đến chính giới mà còn mở rộng ra đông đảo các tầng lớp nhân dân và học giả Trung Quốc bằng truyền thông và ngoại giao kênh hai.
Về sức mạnh tổng hợp:
- Trong đánh bắt và khai thác hải sản, Trung Quốc dùng chiêu bài hải giám và ngư chính để ngụy trang cho các hành động bạo lực của mình. Vậy Việt Nam cũng cần có những đội tàu dân sự nhưng được trang bị đủ sức mạnh để phản ứng lại tàu dân sự giả hiệu của Trung Quốc.
- Chiến lược biển của Việt Nam sẽ không tách rời các hoạt động hợp tác xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, sinh thái hay công viên đại dương xuyên quốc gia với láng giềng.Và nếu cần thì các công tác khảo sát địa chấn và thềm lục địa có thể thuê các công ty nước ngoài kết hợp thực hiện. Cần có một bộ có đủ chức năng liên ngành để lo việc bảo vệ chủ quyền và phát triển và khai thác biển.
- Ðẩy mạnh và nhanh cùng quyết tâm hơn nữa trong việc hiện đại hoá nền kinh tế, quân sự, vũ trang toàn dân song song với việc tổ chức một xã hội và nền chính trị hiện đạị, tạo ra một sức mạnh vững chắc và đầy đủ thế và lực trên trường quốc tế, đủ sức đối phó với nước xâm lấn.
- Kiên quyết hơn trong sử dụng sức mạnh răn đe, nếu chúng ta chưa đủ sức mạnh như Nhật Bản để bắt giữ tàu Trung Quốc thì Việt Nam cũng phải có khả năng dùng máy bay chiến đấu để xua đuổi tàu Trung Quốc vi phạm chủ quyền như Philippines đã từng thực hiện..
- Nhanh chóng và dài hạn thực hiện một chiến lược liên kết toàn cầu, nhất là với các cường quốc kinh tế và quân sự với sách lược từng vùng, từng giai đoạn để tự phá vỡ vòng vây ngày càng thắt chặt này. Việc vận động nhân dân và chính phủ của các đất nước nằm trong Chuỗi Ngọc Trai sẽ do một cơ quan chuyên trách của Chính phủ thực hiện cùng với sự đóng góp ý kiến của người dân Việt Nam. Cảnh báo cho nhân dân thế giới và nhân dân Ấn Độ về những tham vọng này của Trung Quốc cũng sẽ là một phần của ngoại giao nhân dân.
Kết luận
Tất cả những giải pháp đều có những mặt cần phải bổ sung và chuyển hướng chiến lược nhanh, đáp ứng, phản công kịp thời với sự biến động những biến động của tình thế. Để có một tổng thể các giải pháp, cần có một sự động não toàn dân, vận động toàn dân cùng sức người sức của khắp nơi trên thế giới.
Sự "trỗi dậy" của Trung Quốc và sự bộc lộ tham vọng to lớn của họ qua chiến lược Chuỗi Ngọc Trai chứng tỏ họ đã bỏ qua giai đoạn giấu mình chờ thời khiến cả thế giới lo ngại, không chỉ ASEAN, và Ấn Độ mà Mỹ, Nhật Bản và các nước có lợi ích trong giao thông hàng hải trên toàn thế giới.
Thực chất của tình trạng căng thẳng trên biển Đông, dẫn đến cuộc chiến về hoạt động đối ngoại vừa qua chính là việc Trung Quốc muốn gia tăng ảnh hưởng lên khu vực, đè bẹp các nước ASEAN, thăm dò phản ứng của Mỹ và Ấn Độ.
Do vậy, việc Trung Quốc sử dụng vũ lực hay không một phần cũng sẽ do các nước có thái độ nhân nhượng quá đáng hay không và người Mỹ người Ấn có thực hiện đúng tư thế của những nước có lợi ích quốc gia về hàng hải hay không.
Cuối tháng năm 2011 vừa rồi, căng thẳng lại gia tăng lên một mức độ cao hơn trên biển Đông khi ba tàu hải giám của Trung Quốc đe dọa tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam Bình Minh 2 và phá hại thiết bị đo địa chấn của Bình Minh 2. Sự kiện này xảy ra cách bờ bển Việt Nam 120 hải lý, hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý của Việt Nam.
Đối với những ai còn thắc mắc phải chăng sự việc này có dính dáng đến tranh chấp Hoàng Sa hay Trường Sa, chúng tôi xin được trả lời rằng không hề dính dáng. Sự kiện tàu Bình Minh diễn ra gần bờ biển Việt Nam hơn quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa. Theo luật quốc tế và thông lệ quốc gia, Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa và các bãi đá chỉ được hưởng hoặc chế độ nội thủy 12 hải lý hoặc cùng lắm là một vùng biển nội thủy cộng với một đoạn đặc quyền kinh tế (EEZ) không vượt ra quá nhiều mức 12 hải lý. Do vậy dù giàu trí tưởng tượng đến đâu đi nữa thì những vùng đặc quyền kinh tế của hai quần đảo này cũng không thể vươn tới hay đi qua các đường trung tuyến giữa chúng và các bờ biển đang bao bọc biển Đông.
Vào ngày 27/5/2011, Việt Nam gửi một công hàm ngoại giao đến cho Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và quyền chủ quyền Việt Nam ngay trong khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này, Ngày hôm sau, Trung Quốc phản ứng rằng những gì họ làm là “thực thi luật biển và các hoạt động giám sát hoàn toàn bình thường trong vùng biển mà Trung Quốc có quyền tài phán”.
Thế nhưng bởi vì “vùng biển có quyền tài phán” không phải là một trong các vùng nước được định nghĩa trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS), những gì Trung Quốc nói về vùng biển ấy và những cơ sở pháp lý cho vùng biển ấy vẫn còn mù mờ.
Việc tranh cãi qua lại tiếp tục đến ngày 29/05/2011, Việt Nam trả đũa bằng cách tuyên bố rằng Việt Nam đã thực hiện việc thăm dò hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa, ‘theo tinh thần của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Đây không phải là một khu vực tranh chấp và cũng không nằm trong “vùng quản lý của Trung Quốc”. Trung Quốc đã cố ý đánh lạc hướng để dư luận nghĩ rằng đây là vùng tranh chấp’.
Rất hiệu quả ở chỗ Việt Nam đã chỉ ra rằng vùng biển của sự kiện này không nằm trong vùng tranh chấp thuộc Quần đảo Trường Sa hay Hoàng Sa.
Hai ngày sau, Trung Quốc phản công rằng hành động của Trung Quốc, tức “hành động thực thi luật pháp bằng các tàu hải giám Trung Quốc chống lại việc các tàu Việt Nam vận hành bất hợp pháp là hoàn toàn chính đáng”. Họ còn thúc giục Việt Nam phải “ngay lập tức ngưng những hành động xâm nhập và không được gây thêm rắc rối mới”.
Thêm một lần nữa, Trung Quốc không đưa ra được trong tuyên bố của mình định nghĩa nào của vùng biển theo luật quốc tế UNCLOS. Và nước này cũng không đưa ra được giới hạn nào hoặc chích dẫn luật quốc tế nào để biện minh cho lập luận của mình./.