Cảnh báo khi sử dụng các thuốc chống lao
Điều trị lao chia làm hai thời kỳ: 2-3 tháng đầu là thời gian tấn công, phối hợp 3-5 loại thuốc tiêu diệt đa số vi khuẩn đang sinh sản tích cực. Trong thời gian này, bệnh nhân lao nên điều trị tập trung tại bệnh viện chuyên khoa lao. Đến giai đoạn sau là 6 tháng duy trì, bệnh nhân có thể về điều trị tại nhà (điều trị ngoại trú) nhưng vẫn phải có sự theo dõi giám sát hàng tháng của nhân viên y tế. Ngoài các loại thuốc đặc trị lao, người bệnh còn phải dùng thêm các thuốc bổ gan, các vitamin để nâng cao thể trạng. Thời gian điều trị bệnh lao thường kéo dài 6-9 tháng. Khi dùng thuốc chống lao, do yêu cầu phải đạt nồng độ cao trong huyết tương để tiêu diệt BK (vi khuẩn lao), bệnh nhân phải uống tất cả một lần vào lúc đói. Vì vậy, người đang dùng thuốc điều trị lao cần lưu ý một số điểm khi dùng các thuốc sau đây:
Streptomicin (S)
Dùng đặc trị vi khuẩn lao. Thuốc có thể gây tổn thương thận và thần kinh số 8 không hồi phục, tức là có thể gây điếc cho bệnh nhân. Độc tính này tăng lên nếu trong thời gian dùng thuốc người bệnh còn dùng phối hợp các kháng sinh nhóm aminoglycosid đồng thời với thuốc lợi tiểu mạnh. S có tác dụng phụ là gây nhức đầu, ù tai, choáng váng, có khi buồn nôn hoặc tiêu chảy. S là kháng sinh tiêm duy nhất trong các công thức điều trị lao hiện nay. Vì vậy, cần lưu ý quy trình tiêm an toàn, sử dụng bơm tiêm vô trùng dùng 1 lần và cân nhắc liều sao cho phù hợp với thể trạng của bệnh nhân.
Không được dùng S cho người suy thận nặng, giảm thính lực, nhược cơ, phụ nữ có thai. Đối với bệnh nhân trên 60 tuổi, nên thay thế S bằng thuốc đặc trị lao khác.
Ethambutol (E)
E ảnh hưởng đến thần kinh thị giác, làm giảm thị lực, nhìn lẫn màu sắc, có thể mù nếu không dừng thuốc ngay. Vì vậy, không được dùng công thứ chống lao có E trong phác đồ cho những bệnh nhân lao trẻ em hoặc những người không có khả năng phát hiện những rối loạn thị giác như thế này. Cần kiểm tra mắt trước khi điều trị và định kỳ trong quá trình dùng thuốc này. Ngưng thuốc ngay nếu phát hiện dấu hiệu bị giảm thị lực.
Isoniazid (H)
Còn có tên khác như INH, Rimifon, Nydrazid,… là thuốc chống lao rẻ tiền, ít độc nhưng rất hiệu quả cho mỗi thể lao. Thuốc có mặt trong tất cả các công thức điều trị lao hiện nay. Có thể uống để dự phòng lao. Phản ứng có hại ít gặp như bất thường về thần kinh trung ương, biểu hiện choáng váng, loạn tâm thần, co giật. Có thể gây viêm dây thần kinh ngoại biên. Đặc biệt có thể gây viêm gan khi phối hợp với rifampicin và pyrazinamid. Tuy vậy vẫn phải phối hợp vì tỷ lệ viêm gan rất nhỏ so với hiệu quả điều trị. Để khắc phục và phát hiện kịp thời các phản ứng không mong muốn, bệnh nhân điều trị lao phải thường xuyên được kiểm tra chức năng gan, đếm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và kiểm tra trạng thái thần kinh. Ngừng thuốc ngay nếu suy gan tiến triển. Uống kèm vitamin B6 và các thuốc hỗ trợ bảo vệ gan như methionin, sylimarin, BDD… Trong quá trình dùng thuốc không nên uống rượu. Không nên dùng đồng thời H với các corticoid vì sẽ giảm hiệu quả điều trị.
Rifampicin (R)
Còn có tên khác như Rimactan, Rifadin, Rifampin… Cũng giống như isoniazid, R có thể gây viêm gan nhất là khi phối hợp R-H, vì vậy, cần thường xuyên theo dõi chức năng gan khi điều trị lao bằng thuốc này. Không nên dùng thuốc nếu bệnh nhân là phụ nữ có thai. Khi dùng thuốc có thể gặp một số phản ứng phụ như đỏ bừng mặt, ngứa, hội chứng giống như cúm. Chú ý khi dùng thuốc này thấy vàng da, nước tiểu, nước mắt, nước bọt, đờm có màu đỏ. Đối với người đeo kính sát tròng, thuốc gây đổi màu kính sang đỏ, có thể biểu hiện chán ăn, buồn nôn, tiêu chảy…
Pyrazinamid (Z)
Z thường chỉ dùng trong thời kỳ đầu của phác đồ điều trị lao. Sau đó chuyển sang các thuốc khác. Z cũng độc với gan, uống thuốc có thể gây đau dạ dày, ruột, làm tăng acid uric trong máu gây bệnh gút, gây đau khớp nhất là khớp vai. Vì vậy không nên dùng cho người bị suy gan nặng hoặc đang điều trị gút.
Các thuốc chống lao nói trên đều là những hoá chất có tác dụng tiêu diệt BK với các mức độ khác nhau, trong các môi trường khác nhau mà vi khuẩn đang tồn tại. Việc phối hợp các thuốc chống lao là bắt buộc và tuân theo từng công thức do thầy thuốc cân nhắc dựa trên thực thể lâm sàng của người bệnh. Nhưng chính thực sự là một gánh nặng cho gan và thận là hai cơ quan của cơ thể trực tiếp chịu tác động của các hoá chất chống lao. Vì vậy, cần phải kịp thời ghi nhận và phản ánh ngay các biểu hiện bất thường trong quá trình dùng thuốc.
Điều trị lao phải được kiểm soát trực tiếp để tránh tình trạng bỏ dở điều trị hoặc dùng thuốc không đủ liều lượng làm gia tăng tình trạng vi khuẩn lao kháng thuốc. Được tư vấn kịp thời nếu người dùng thuốc gặp các phản ứng không mong muốn của thuốc. Lao kháng thuốc không có thuốc đặc trị và khi bệnh nhân mắc phải lao kháng thuốc thì điều trị rất tốn kém mà cũng không hy vọng nhiều vào kết quả khỏi bệnh. Lao kháng thuốc và lao kết hợp với HIV/AIDS đang làm mối lo ngại của cộng đồng quốc tế hiện nay.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 291, 1/9/2005, tr 12








