Cần ứng xử khoa học với văn hoá Tây Nguyên
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu của tác giả này là “Sử thi thần thoại M’Nông” (1996), “Văn học dân gian Ê Đê, M’Nông” (2008) được giới nghiên cứu văn học dân gian đánh giá cao.
Ông có nhận thấy văn hoá dân gian Tây Nguyên đang có những biến đổi vừa đáng mừng, vừa đáng lo?
- Đấy là điều rõ ràng, ai quan tâm đến văn hoá cổ truyền Tây Nguyên cũng dễ dàng thấy được, giới chuyên môn như chúng tôi càng thấy rõ điều này.
Cái đáng mừng nhất theo ông là gì?
- Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến việc đầu tư cho phát triển Tây Nguyên trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá. Chúng ta có thể thấy rất rõ qua việc đầu tư xây dựng hàng ngàn nhà văn hoá cộng đồng cho các buôn làng, phục dựng lại hàng trăm sinh hoạt văn hoá dân gian, đặc biệt là việc đầu tư cho sưu tầm, biên dịch, nghiên cứu và xuất bản hơn 80 tập sử thi. Đấy chính là điều đáng mừng nhất.
Còn cái đáng lo? Phải chăng là việc đầu tư có nơi, có lúc chưa trúng, chưa đúng, hiệu quả thấp, thậm chí có việc làm phản tác dụng? Phải chăng là cách làm của cán bộ văn hoá có nơi, có người còn mang tính áp đặt, do thiếu hiểu biết về văn hoá Tây Nguyên?
- Những điều anh vừa nêu cũng là có cơ sở, bởi đã từng xảy ra trong quá trình thực hiện một số dự án, chương trình, ở một số nơi không khoa học. Ví như việc đầu tư xây dựng nhà văn hoá cộng đồng cho các buôn làng. Có trường hợp người thực hiện đã không tham khảo kỹ ý kiến của đồng bào cũng như ý kiến của các nhà chuyên môn, để công trình vừa đáp ứng được nguyện vọng của đồng bào, vừa bảo đảm được tính truyền thống, hay như việc phục dựng một số lễ hội văn hoá dân gian, người ta sử dụng ánh điện sáng loá, loa điện công suất cao chói tai, nên cái không gian thiêng liêng, huyền ảo cũng chẳng còn.
Phải chăng chúng ta cần phải có một cách nhìn mới, một cách ứng xử mới với văn hoá bản địa Tây Nguyên?
- Rõ ràng là như vậy. Chúng ta nói bảo tồn, nhưng là bảo tồn cái gì? Nói phát huy, nhưng là phát huy cái gì? Theo tôi, ở đây rất cần các nhà khoa học, các chuyên gia về văn hoá Tây Nguyên. Trên cơ sở lắng nghe ý kiến của đồng bào, nhất là ý kiến của giới trí thức dân tộc bản địa kết hợp với hiểu biết của các chuyên gia, người ta sẽ chọn ra những vấn đề gì, những nội dung gì để đầu tư bảo tồn và phát huy nó trong đời sống hôm nay. Đó là cách đầu tư có chọn lọc, có trọng điểm. Như vậy, chắc chắn sẽ được đông đảo đồng bào đón nhận, sẽ không xảy ra lãng phí. Phải làm việc này một cách kiên trì, thực chất. Điều quan trọng là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ làm văn hoá ở cơ sở là con em của đồng bào dân tộc, có hiểu biết, tâm huyết với sự nghiệp chấn hưng văn hoá bản địa. Bởi chính họ mới có thể bảo tồn và phát huy văn hoá bản địa Tây Nguyên một cách hiệu quả và bền vững nhất, không ai có thể làm thay họ được.
Có ý kiến cho rằng làm phim về văn hoá bản địa Tây Nguyên rồi đem chiếu rộng rãi trong cộng đồng là một cách để truyền dạy, phổ biến hiệu quả nhất?
- Rõ ràng phim ảnh phát trên truyền hình, chiếu trong cộng đồng, nhất là những phim có chất lượng cao sẽ thu hút được đông đảo người xem. Và như vậy thì tác dụng truyền dạy, phổ biến là rất lớn. Chúng tôi và đạo diễn Quốc Trọng – đã mơ ước được ai đó đầu tư để hợp sức cùng các trí thức, nghệ nhân Ê Đê làm một bộ phim về “Sử thi Đam San”. Trong sử thi này chứa đựng đầy đủ những yếu tố của một chuyện phim hấp dẫn, bởi nó thấm đẫm chất nhân bản và mang tính phổ quát. Ở đó có tình yêu, có bi kịch, vừa hoành tráng, dữ dội, vừa đầy chất thơ... của con người, văn hoá và thiên nhiên Tây Nguyên. Đó thật sự là “bách khoa thư” của tộc người Ê Đê. Nhưng thật tiếc là đến nay việc làm phim về Đam San vẫn chỉ là trong mơ, không biết đến bao giờ mới thành hiện thực...
- Xin cảm ơn ông đã cùng trao đổi...








