Cần quan tâm đẩy mạnh công tác thống kê khoa học và công nghệ
Trong quá trình phát triển nền KH&CN nước nhà, công tác thống kê KH&CN đã có những bước tiến quan trọng, với sự quan tâm ngày càng nhiều hơn của Đảng và Nhà nước. Trong đó, phải nói đến hệ thống văn bản pháp luật về thống kế KH&CN được hình thành và ngày càng hoàn thiện: năm 2000, Luật KH&CN được ban hành, với quy định thống kê KH&CN là một trong những nội dung quản lý nhà nước về KH&Cn; Năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2006/NĐ-CP quy định về thống kê KH&CN; Đặc biệt, ngày 30/3/2009, Bộ KH&CN đã ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KH&CN (ban hành kèm theo Thông tư số 05/2009/TT-BKHCN). Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng, không chỉ khẳng định vai trò của công tác thống kê KH&CN đối với sự nghiệp phát triển KH&CN, mà còn thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động này trên phạm vi toàn quốc.
Ở Thanh Hoá, công tác Thống kê KH&CN chủ yếu được tiến hành dưới 2 hình thức:
1) Tổ chức thành cuộc điều tra thống kê KH&CN:
Hình thức này rất ít triển khai và được thực hiện bởi các tổ điều tra do cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN thành lập: Năm 1996 - 1997 triển khai cuộc điều tra tiềm lực KH&CN của tỉnh với quy mô khá lớn; năm 2007 - 2008 triển khai cuộc điều tra nhân lực các tổ chức KH&CN và một số đơn vị có hoạt động KH&CN trong tỉnh. Ở mức độ khác nhau, kết quả của các cuộc điều tra thống kê này đã phục vụ xây dựng định hướng chiến lược, chính sách phát triển tiềm lực KH&CN của tỉnh đi đúng hướng và hiệu quả.
2) Việc thu thập, tổng hợp số liệu thống kê của các cán bộ quản lý thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý của các phòng, đơn vị, bộ phận có chức năng quản lý nhà nước về KH&CN:
Đây là hình thức phổ biến, chủ yếu phục vụ cho tổng hợp, báo cáo sơ kết, tổng kết, hoặc cung cấp thông tin cho lãnh đạo các cấp, các tổ chức, cá nhân có quan tâm. Tuy không tổ chức bài bản như tổ chức cuộc điều tra thống kê KH&CN, quy mô, phạm vi nhỏ lẻ, nhưng hình thức này có ưu điểm là cung cấp thông tin phục vụ quản lý nhanh và kịp thời (Ví dụ: thống kê số lượng các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh triển khai hàng năm; chi ngân sách nhà nước cho KH&CN; số tổ chức, cá nhân tiến hành công việc bức xạ; số phương tiện đo được kiểm định; số tổ chức, doanh nghiệp được cấp chứng chỉ áp dụng hệ thống quản lý; số cuộc thanh tra về KH&CN…).
Mấy năm gần đây, đặc biệt từ khi liên bộ: Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Nội vụ ban hành Thông tư Liên tịch số 05/2008/TTLT-BKHCN-BNV, ngày 18/6/2008 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về khoa học và công nghệ thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, công tác thống kê KH&CN của tỉnh đã được quan tâm hơn và cũng đã triển khai một số hoạt động nhằm thực hiện nhiệm vụ thống kê KH&CN tại địa phương theo hướng dẫn tại Thông tư này:
- Về tổ chức, thực hiện Quyết định số 4006/QĐ-UBND ngày 11/12/2008 của UBND tỉnh Thanh Hoá về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về KH&CN thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, Giám đốc Sở KH&CN Thanh Hoá đã giao nhiệm vụ thống kê KH&CN là một trong những chức năng chính của một phòng chuyên môn thuộc Sở.
- Về kế hoạch, công tác thống kê KH&CN được đưa vào kế hoạch định kỳ hàng năm, triển khai đồng bộ với các hoạt động quản lý KH&CN khác như: Thống kê nhân lực KH&CN thống kê các nhiệm vụ KH&CN… Đặc biệt, năm 2009, sở KH&CN đã ban hành Quy định về ghi mã số các đề tài, dự án KH&CN cấp tỉnh theo Quyết định số 12/2008/QĐ-BKHCN ngày 04/9/2008 của Bộ trưởng KH&CN về việc ban hành một số bảng phân loại thống kê KH&CN. Đây là những kết quả ban đầu, thể hiện sự quyết tâm đưa hoạt động thống kê KH&CN của tỉnh Thanh Hóa dần đi vào nền nếp, phù hợp với các quy định pháp luật về thống kê KH&CN.
Tuy đã đạt được kết quả nhất định, đóng góp vào thành tích chung của Ngành, công tác thống kê KH&CN ở Thanh Hoá còn nhiều việc chưa làm được, trong đó phải kể đến là:
- Công tác thống kê KH&CN chủ yếu ở cấp tỉnh, do Sở KH&CN tổ chức điều tra, thu thập. Trong nhiều năm qua, khi cần số liệu thống kê đánh giá tác động của KH&CN đối với phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, cũng chỉ nêu được số lượng các đề tài, dự án KH&CN cấp tỉnh, còn hoạt động KH&CN cấp ngành, cấp cơ sở chỉ nêu chung chung như: "nhiều đề tài, dự án", hoặc "các đề tài, dự án" v.v… Có thể nói: Nhiều hoạt động KH&CN ở cấp ngành, cấp cơ sở chưa được quan tâm tổ chức thống kê và đánh giá theo một hệ thống tiêu chí thống nhất để hợp thành hệ thống dữ liệu thống kê về KH&CN đồng bộ trong toàn tỉnh.
- Nội dung thống kê KH&CN chủ yếu mới ở một số chỉ tiêu nhất định, còn nhiều chỉ tiêu phản ánh hoạt động KH&CN trong tỉnh rất thiết thực nhưng chưa được tổ chức điều tra, thu thập, đánh giá đầy đủ như: Chỉ tiêu về số đề tài/dự án nghiên cứu và phát triển đã đưa vào ứng dụng; số doanh nghiệp có hoạt động đổi mới công nghệ; số dự án đầu tư được thẩm định công nghệ… Rà soát theo Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KH&CN mà Bộ KH&CN đã ban hành (gồm có 59 chỉ tiêu, chia làm 12 nhóm), thấy rằng số chỉ tiêu đã và đang được tổ chức thống kê ở dưới mức 50% tổng số. Điều này làm xung quanh vấn đề thực hiện thống kê KH&CN trên địa bàn tỉnh theo Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KH&CN.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu là hệ thống văn bản pháp luật về thống kê KH&CN chậm được hoàn thiện:
Như đã phân tích ở trên, mặc dù thống kê KH&CN luôn gắn liền với hoạt động quản lý KH&CN thông qua việc thu thập, tổng hợp số liệu thống kê của các cán bộ quản lý theo yêu cầu của cấp trên. Tuy nhiên, dưới góc độ là một nội dung quản lý nhà nước về KH&CN, thống kê KH&CN chỉ mới được quy định trong Luật KH&CN năm 2000, đến năm 2003 mới quy định nhiệm vụ này cho địa phương bằng một câu: "Thống kê KH&CN trên địa bàn tỉnh theo quy định của Bộ KH&CN" (Thông tư Liên tịch số 15/2003/TTLT-BKHCN-BNV) và đến năm 2009, Bộ KH&CN mới ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KH&CN. Như vậy, sau gần 10 năm, kể từ khi có quy định về thống kê KH&CN (trong Luật KH&CN), mới có Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KH&CN - "phương tiện" pháp lý cơ bản để bảo đảm tính thống nhất về các chỉ tiêu thống kê trong tổ chức hoạt động thống kê trong tổ chức hoạt động thống kê KH&CN ở các ngành, địa phương và cơ sở trong cả nước.
Một số chỉ tiêu trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KH&CN đã ban hành chưa được giải thích, hoặc hướng dẫn áp dụng, gây khó khăn trong triển khai thực hiện.
Ví dụ: Chỉ tiêu " Số đề tài /dự án nghiên cứu và phát triển". Một trong các phân tổ chủ yếu của chỉ tiêu này là: " Loại hình nghiên cứu". Khái niệm này chưa được giải thích.
Liệu có phải được phân ra thành: Số đề tài nghiên cứu cơ bản, số đề tài nghiên cứu ứng dụng (loại hình hoạt động nghiên cứu khoa học); số đề tài (dự án?) triển khai thực nghiệm, số dự án sản xuất thử nghiệm (loại hình hoạt động phát triển công nghệ) như đã quy định trong Luật KH&CN và Bảng phân loại Dạng hoạt động KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số 12/2008/QĐ-BKHCN ngày 04/9/2008 của Bộ trưởng Bộ KH&CN?
Hay được phân thành: Số đề tài nghiên cứu; số dự án KH&CN và số dự án sản xuất thử nghiệm, dựa theo cách phân loại các hình thức thực hiện các nhiệm vụ KH&CN quy định tại Nghị định 81/2002/NĐ-CP ngày 17/10/2002 của Chính phủ (Thanh Hoá hiện đang tổ chức quản lý các nhiệm vụ KH&CN theo các hình thức này)?
Một ví dụ khác:
Chỉ tiêu " Số tổ chức KH&CN": Một trong các phân tổ chủ yếu của chỉ tiêu này là: " Loại hình tổ chức". Khái niệm này cũng chưa được giải thích. Theo Luật KH&CN, có thể phân loại " Loại hình tổ chức" theo chủ thể có thẩm quyền thành lập tổ chức KH&CN: Tổ chức KH&CN của Nhà nước; Tổ chức KH&CN tư nhân v.v…., hoặc theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức KH&CN: Tổ chứ nghiên cứu khoa học; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; dịch vụ KH&CN.
Như thế, biết thống kê, phân loại chỉ tiêu " Số tổ chức KH&CN" theo cách nào trong 2 cách trên?
Đó là chưa kể đến khó khăn trên thực tế khi phải phân loại tổ chức KH&CN có chức năng, nhiệm vụ hỗn hợp cả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và dịch vụ KH&CN (ở Thanh Hoá có loại hình tổ chức này)…
Một nguyên nhân nữa là các ngành và địa phương trong tỉnh chưa thực sự quan tâm đến hoạt động thống kê KH&CN, còn để bỏ trống nhiều chỉ tiêu thống kê KH&CN trên các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của các đơn vị này.
Để đẩy mạnh hoạt động thống kê KH&CN, theo chúng tôi cần sớm quan tâm thực hiện các nội dung sau:
1) Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thống kê KH&CN, trước mắt cần ban hành:
Bộ KH&CN có văn bản hướng dẫn chi tiết (có ví dụ cụ thể) về các chỉ tiêu phân loại thống kê KH&CN đã nêu trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành KH&CN (Ban hành kèm theo thông tư 05/2009/TT-BKHCN) và các bảng phân loại thống kê KH&CN (Ban hành kèm theo quyết định 12/2008/QĐ-BKHCN); Xây dựng Bảng phân loại vòng đời công nghệ, Bảng phân loại dạng tổ chức KH&CN và Chế độ báo cáo thống kê KH&CN theo quy định tại Nghị định số 30/2006/NĐ-CP ngày 29/3/2006 của Chính phủ về thống kê KH&CN.
Hiện nay, tỉnh Thanh Hoá đang rà soát, xây dựng Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh (do Cục Thống kê Thanh Hoá chủ trì), trong đó có Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngày KH&CN. Đây là những quy định cụ thể ngành KH&CN. Đây là những quy định cụ thể căn cứ vào khả năng, tình hình thực tế của tỉnh và phù hợp với các quy định của pháp luật về thống kê KH&CN. Hệ thống chỉ tiêu này sớm ban hành sẽ là điều kiện thuận lợi về pháp lý để thống nhất triển khai công tác thống kê KH&CN trên phạm vi toàn tỉnh.
2) Bộ KH&CN và ngành Thống kê cần tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức chung về thống kê và kiến thức về thống kê KH&CN cho đội ngũ cán bộ làm công tác thống kê KH&CN.
3) Cấp uỷ, chính quyền các ngành, các cấp; lãnh đạo các cơ quan, đơn vị cần quan tâm đẩy mạnh hơn nữa đối với công tác thống kê KH&CN. Trong đó tập trung chỉ đạo bảo đảm phát triển công tác thống kê KH&CN theo quy định tại Nghị định số 30/2006/NĐ-CP của Chính phủ, đặc biệt là bảo đảm về tài chính và nhân lực. Đồng thời, phát triển công tác thống kê KH&CN phải gắn liền với việc đẩy mạnh hoạt động thông tin KH&CN.
Dù có muốn hay không, thống kê KH&CN vốn đã là việc làm thường xuyên song hành cùng với quá trình quản lý KH&CN từ lâu nay. Điều quan trọng là ở chỗ chúng ta phải xem đó là một khâu "cứng" trong hoạt động KH&CN, được tổ chức thực hiện chủ động, bài bản và thống nhất trong toàn hệ thống. Tránh tình trạng khi cần dữ liệu phục vụ quản lý thì mới tổ chức thống kê một cách bị động như trước đây.








