Cần có cơ chế trong quản lý đầu tư Công nghệ thông tin
Ông Bùi Mạnh Hải, Thứ trưởng Bộ KH&CN, cho biết: Các quy định của Nhà nước hiện hành trong quản lý đầu tư CNTT là một trong những vướng mắc làm chậm tiến độ triển khai và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của các dự án CNTT trong thời gian qua. Cụ thể các dự án đầu tư cho CNTT đều áp dụng theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NÐ-CP, về quản lý đầu tư xây dựng công trình.
Theo quy chế này, chi phí tư vấn cho xây dựng dự án khả thi khoảng 0,3-05% và thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán là 3%. Tỷ lệ này được coi là thấp, bởi lẽ phần mềm vốn là lĩnh vực đòi hỏi trí tuệ cao, do vậy dẫn đến chất lượng xây dựng dự án, cũng như thiết kế kỹ thuật không cao. Hơn nữa tỷ lệ phần trăm áp dụng cho xây dựng thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán chỉ được tính trên thiết bị xây lắp, do vậy đối với một dự án CNTT giá trị thực được áp dụng để tính chi phí thiết kế nhỏ hơn nhiều so với tổng giá trị của dự án. Dự án CNTT ngoài các nội dung xây lắp, trang thiết bị, phần mềm thì các nội dung khác như đào tạo, chuyển giao công nghệ, kinh phí triển khai ứng dụng cũng chiếm một tỷ trọng không nhỏ.
Ông Nguyễn Trọng Ðiều, Thứ trưởng Nội vụ, cho rằng: Về quy định, định mức chi phí tư vấn trong xây dựng cơ bản được quy định tại Quyết định số 14/2000/QÐ-BXD, ngày 20-7-2000, của Bộ Xây dựng về việc ban hành định mức chi phí tư vấn đầu tư xây dựng được vận dụng cho các chi phí tư vấn đầu tư CNTT là không phù hợp. Trong khi đó, đại diện Tổng cục Du lịch phản ánh, hiện còn nhiều bất cập về mặt pháp lý, tổ chức và nhân lực cho nên các dự án đầu tư thông tin quy mô lớn vẫn chưa triển khai hoặc triển khai chậm, kém hiệu quả. Những mục tiêu, giải pháp phát triển CNTT hiện nay ở tình trạng chủ trương thì đúng, nhưng do cơ chế chưa đủ mạnh cho nên chưa triển khai thực hiện được, điển hình là đề án 112.
Quản lý về đầu tư CNTT chưa thống nhất, cụ thể là xen lẫn giữa cơ chế quản lý hành chính với nhiệm vụ chuyên môn. Cơ chế về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản có nhiều điểm chưa phù hợp với đặc thù của các dự án CNTT cũng làm ảnh hưởng việc triển khai công tác đầu tư. Hơn nữa, trong quá trình triển khai, một số hoạt động đặc thù chưa có định mức và đơn giá riêng cho nên phải tạm lấy đơn giá của ngành bưu điện. Các tiêu chuẩn ngành đối với lĩnh vực CNTT như: Mạng lan, Wan, man, tích hợp chưa rõ ràng.
Hiện Nhà nước chưa có văn bản đầu tư áp dụng riêng cho lĩnh vực CNTT. Khi làm thủ tục đấu thầu đều áp dụng đấu thầu phần thiết bị hay phần mềm theo hình thức mua sắm hàng hóa. Trong đấu thầu phần mềm cũng còn gặp những khó khăn cụ thể. Ðó là chưa có cơ quan nhà nước có trách nhiệm thẩm định về giá phần mềm hoặc có khung giá phần mềm. Do vậy, để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong xây dựng và triển khai các dự án CNTT cần phải có một quy định riêng về xây dựng, quản lý và triển khai dự án CNTT.
Ðể các luật về CNTT sớm được đưa vào cuộc sống, Nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật. Ðồng thời, có quy chế cụ thể về chế độ báo cáo, hệ thống các chỉ tiêu thống nhất trên toàn quốc, làm cơ sở cho việc đánh giá đúng mức độ sẵn sàng ứng dụng và phát triển CNTT ở các địa phương, nắm sát tình hình và có định hướng cụ thể để triển khai việc xây dựng, áp dụng và phát triển CNTT trên địa bàn.
Nguồn: Nhân dân,13/06/2006








