Các nhà khoa học phát minh và phát triển thuyết cấu tạo nguyên tử
1. Ernest Rutherford (1871 - 1937)
Rutherfordsinh ra tại một nông trại ở Niu Dilan năm 1871. Khi trưởng thành, ông du học ở Đại học tổng hợp Camborit và năm 1895, ông nhận học vị tiến sĩ ở đó. Ông là người đầu tiên tìm ra các bức xạ anpha- beta và đặt ra khái niệm chu kì bán hủy. Do chiến công chứng minh được rằng bức xạ anpha bao gồm hạt nhân nguyên tử heli và bức xạ beta bao gồm các hạt electron, ông đã nhận được giải thưởng Nobel hóa học năm 1908. Là giáo sư của Đại học Camborit, tại đây ông đã hướng dẫn hơn 10 nhà khoa học tài năng, những người về sau đều nhận được giải thưởng Nobel. Để tôn vinh ông, người ta đã lấy tên ông đặt cho nguyên tố hóa học thứ 104 trong bảng hệ thống tuần hoàn.
2. Niels Bohr (1885 - 1962)
Niels Bohr sinh tại Copenhagan Đan Mạch năm 1885. Ông đã làm việc và nghiên cứu trong nhóm của Tomxon với Rudopho tại nước Anh. Ông là người đầu tiên phát triển ý tưởng dẫn tới sự công bố lý thuyết về quang phổ nguyên tử. Do những công trình quan trọng của mình trong lĩnh vực đó, ông đã nhận được giải thưởng Nobel vật lý năm 1922.
Với tư cách là Viện trưởng Viện Vật lý lý thuyết ở Copenhaghen, ông đã hướng dẫn nhiều nhà vật lý trẻ trong đó có 7 người đã nhận được các giải thưởng Nobel về Vật lý và Hóa học như Werner Heisenberg, Wolfgang Pauli, Linus Pauling và Lep Landao. Học trò của ông là Linus Pauling - nhà vật lý, hóa lý người Mỹ đã nhận hai giải thưởng Nobel trong đó có một giải Nobel hòa bình do những cống hiến của ông trong cuộc đấu tranh vì hòa bình đặc biệt chống vũ khí hạt nhân và chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.
3. Linus Paulinh (1901 - 1994)
Linus Paulinh sinh năm 1901 tại Mỹ trong một gia đình dược sĩ. Sau khi tốt nghiệp đại học và có bằng tiến sĩ, ông đã sang châu Âu trong một thời gian ngắn, cùng làm việc với Schrodinger, Niels Bohr. Do những đóng góp quan trọng của ông trong lĩnh vực lý thuyết về liên kết hóa học và những phương hướng đúng đắn về cấu trúc của các protein, ông đã nhận được giải thưởng Nobel hóa học năm 1954. Sau đại chiến thế giới thứ hai, vợ chồng ông bắt đầu khởi xướng cuộc vận động mạnh mẽ ở Mỹ cũng như trên toàn thế giới giải trừ vũ khí hạt nhân; phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và ông tiếp tục nhận được giải Nobel hòa bình năm 1963. Ông mất năm 1994, đã để lại một gia tài phong phú, nổi bật về nghiên cứu khoa học cơ bản, về những ứng dụng sai trong kỹ thuật và về hoạt động xã hội chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình.